Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2021

Giai đoạn Y Khoa Đại Học Đường Sài Gòn (1946 – 1975)

 KHOA Y

 
Khoa Y Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tiền thân trước năm 1976 là Y Khoa Đại Học Đường Saigon, là một trong những khoa được thành lập đầu tiên của Trường, từ năm 1947.
 
Hiện nay, trong xu thế phát triển chung, với khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng và rộng khắp trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế... đòi hỏi Khoa Y phải tăng tốc, đón đầu để phát triển một cách bền vững.
 
Là một cơ sở đào tạo trọng điểm của khu vực phía nam, Khoa Y có sứ mạng chuyển giao kiến thức và đào tạo nhân lực y tế nhằm phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển các khoa học sức khoẻ góp phần nâng cao trình độ của nền y học nước nhà.
 
Quá trình hình thành và phát triển của Khoa Y gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Từ khi thành lập đến nay, Khoa đã đào tạo và cung cấp cho đất nước hàng vạn bác sĩ, thạc sĩ, bác sĩ CK I, bác sĩ CKII, tiến sĩ..., đã thực hiện hàng loạt công trình nghiên cứu khoa học, ứng dụng trong phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị các loại dịch bệnh, chế tạo ra các chế phẩm y-sinh.
 
Khoa Y ngày nay là một cơ sở đào tạo trọng điểm của khu vực phía nam, có sứ mạng chuyển giao kiến thức và đào tạo nhân lực y tế nhằm phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển các khoa học sức khoẻ góp phần nâng cao trình độ của nền y học nước nhà. Có ba giai đoạn chính từ lúc hình thành, phát triển cho đến nay: giai đoạn trước 1975, giai đoạn từ 1975 đến nay.
 
GIAI ĐOẠN Y KHOA ĐẠI HỌC ĐƯỜNG SÀI GÒN (1946 – 1975)
 
1.1. Cơ sở vật chất:
 
Đại học Y khoa đầu tiên ở Việt Nam là Khoa Y Dược Đông Dương (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie) thuộc Viện Đại học Đông Dương (Université de l’Indochine) đặt ở Hà Nội.
 
Năm 1946 người Pháp mở thêm một chi nhánh ở Sài Gòn với tên Khoa Y Dược Hà Nội, chi nhánh Saigon (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie de Hanoi, Section de Saigon).
 
Sau Hiệp định Genève 1954, cơ sở và nhân sự được dời từ Hà Nội vào Sài Gòn dưới tên mới: Khoa Y Dược, Viện Đại Học Saigon (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie, Université de Saigon). Trụ sở của trường là số 28 đường Testard gần góc với đường Barbé (sau 1955 đổi là Trần Quý Cáp và Lê Quý Đôn). Nguyên đó là đất cũ của ngôi chùa Khải Tường lịch sử. Trên nền chùa lúc ấy là biệt thự của gia đình BS. Henriette Bùi. Henriette Bùi là nữ Bác Sĩ đầu tiên của Việt Nam. Bà mở Dưỡng Đường Sản Phụ Khoa tại biệt thự này từ 1940. Gia đình bà đã hiến tặng biệt thự này để làm trụ sở cho nhà trường. Trường là một biệt thự hai tầng: tầng trên làm văn phòng Khoa Trưởng, phòng Hội Đồng Giáo Sư và cũng là nơi các sinh viên trình luận án - tầng dưới dành cho văn phòng hành chánh, phòng hội và thư viện - đằng sau là khu vườn trống, mấy năm sau xây thêm giảng đường. Hai giảng đường lớn được xây hai bên và 4 giảng đường nhỏ ở giữa xếp theo hình chữ U. [1]
 
Tòa nhà 28 Trần Quý Cáp
 
 
BS. Henriette Bùi
 
 
 
Ngoài bệnh viện Chợ Rẫy, được xây dựng vào năm 1900, cùng với Viện Pasteur Saigon (thành lập vào năm 1891), là các cơ sở thực tập y khoa có sẵn từ trước, bệnh viện Bình Dân được thành lập vào năm 1954 để bổ sung vào các cơ sở thực tập.
 
Bệnh viện Bình Dân
 
 
Bệnh viện Chợ Rẫy
 
 
 
Năm 1956, Bệnh viện Nhi đồng trên đường Sư Vạn Hạnh bắt đầu hoạt động; đó là cơ sở y tế đầu tiên dành riêng cho bệnh nhi.
 
 
 
Cũng trong năm 1956, Cơ Thể Học Viện được thành lập ở đường Trần Hoàng Quân (nay là đường Nguyễn Chí Thanh), cạnh Bệnh viện Hồng Bàng (nay là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch).
 
 
 
 
 
Một bệnh viện mới, Bệnh viện Nguyễn văn Học được xây dựng ở Gia Định năm 1967.  Với số giường trên dưới 600, đây là bệnh viện lớn thứ nhì sau bệnh viện Chợ Rẫy (1200 giường). Cũng như các bệnh viện thực tập khác, bệnh viện Nguyễn Văn Học, cũng còn có tên là Trung Tâm Thực tập Y khoa Gia Định, trực thuộc bộ Y tế lúc bấy giờ, nhưng công việc giảng dạy do các nhân viên giảng huấn của Y Khoa Đại Học Đường Saigon đảm nhiệm, gồm các bộ môn Nội, Ngoại khoa, Nhi khoa và Sản Phụ khoa. [2]
  
Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
 
 
 
Tháng 8.1961: Dược khoa tách ra và dọn về trụ sở 169 Công Lý, từ 1964 chuyển về 41, đường Cường Để (nay là đường Đinh Tiên Hoàng).
 
Năm 1963: Nha khoa tách ra và dọn về trụ sở 652 Nguyễn Trãi. Cũng vào những năm này các giáo sư người Pháp lần lượt giải nhiệm và ban giảng huấn chuyển qua tay người Việt. Năm 1962 là năm cuối cùng bằng Bác sĩ Y khoa của Viện Đại học Sài Gòn được công nhận tại Pháp.
 
Năm 1966: Y Khoa và Nha Khoa dọn đến Trung tâm Giáo dục Y khoa, địa điểm mới vừa xây dựng xong ở số 217 đường Hồng Bàng, quận 5. Kinh phí xây dựng lúc bấy giờ là 4 triệu rưỡi Mỹ kim, 50% do cơ quan USAID Hoa Kỳ tài trợ với sự trợ lực của Hiệp Hội Y khoa Hoa Kỳ (American Medical Association, AMA),  50% góp từ ngân sách quốc gia Việt Nam Cộng hòa. Cơ sở mới được một nhóm kiến trúc sư Mỹ - Việt thiết kế, trong đó Công ty CRS (Houston) là trưởng nhóm Hoa Kỳ, và Văn phòng tư vấn kiến trúc của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là trưởng nhóm Việt Nam. Sau khi xây dựng xong, nhóm kiến trúc sư Mỹ Việt đang tiến hành thiết kế bệnh viện Y khoa thực hành cho trường Y tại một khu đất bên trái (có sân bay trực thăng) nhưng phải ngưng (khu đất này ngày nay có Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh).
 
 
 
 
 
 
 
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
 
 
 
Tính đến 1975, Y Khoa Đại Học Đường Saigon là một trong số 8 Trường (Kiến Trúc, Khoa Học, Luật Khoa, Sư Phạm, Văn Khoa, Y Khoa, Dược Khoa, Nha Khoa) trực thuộc Viện Đại Học Saigon. [3]
 
Lý thuyết và thực tập các môn khoa học cơ bản được triển khai tại nhiều nơi như [2]:
 
 Môn Vi trùng và Ký sinh trùng học: Viện Pasteur Saigon
 Môn Sinh hoá học: phòng thí nghiệm Bệnh viện Đô Thành (nay là Bệnh viện Sài Gòn)
 Môn Mô học và Cơ thể bệnh học (nay gọi là Giải phẫu bệnh học): quân y viện Coste (của quân đội Pháp ở gần Thảo Cầm viên, nay là trường nữ trung học Trưng Vương)
 Môn Cơ thể học (nay gọi là Giải phẫu học): Bệnh viện Chợ Rẫy.
 
Các bệnh viện thực tập gồm: 
 
 Bệnh viện Grall (là bệnh viện đa khoa của người Pháp trước 1975, sau này là Bệnh viện Nhi đồng 2): ban đầu sử dụng tối đa lúc về cơ sở, phòng ốc và giảng viên, những năm sau giảm dần.
 Bệnh viện Chợ Rẫy: cho các môn Nội, Ngoại, Tai Mũi Họng, Mắt.
 Bệnh viện Đô Thành (nay là Bệnh viện Sài Gòn): cho các môn Nội, Ngoại, Cấp Cứu, Tai Mũi họng.
 Bệnh viện Chợ Quán (nay là Bệnh viện Bệnh nhệt đới và Bệnh viện Tâm thần): cho môn bệnh truyền nhiễm và bệnh tâm thần.
 Bảo sanh viện Từ Dũ (nay là Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ).
 Viện Bài trừ Hoa liễu (nay là Bệnh viện Da Liễu).
 
Thư viện và báo chí
 
Y khoa Đại học Đường Sài Gòn là nơi lưu trữ nhiều sách báo chuyên môn. Vào thời điểm 1970 thư viện của trường có 7.302 đầu sách tiếng Anh, 4.547 sách tiếng Pháp cùng một số sách tiếng Việt. [4]
 
Ngoài công việc giảng dạy, các nhân viên giảng huấn còn tích cực tham gia khảo cứu. Rất nhiều bài báo cáo khoa học đã được đăng trên các báo y khoa quốc nội và quốc ngoại, những bài này đã được liệt kê trong hai quyển sách Travaux de Recherche Scientifique I và II của GS Nguyễn Hữu và BS Nguyễn Đức Nguyên. Ngoài ra còn có là quyển sách Bibliographie des Thèses của GS Nguyễn Đức Nguyên, trong đó ghi lại đầy đủ tất cả các luận án đệ trình tại hai trường y khoa Saigon và Hà nội từ khi thành lập tới năm 1972. Từ năm 1957 đến 1975, trường cũng chủ biên một tạp chí y khoa là Acta Medica Vietnamica, xuất bản mỗi 3 tháng một lần, tổng biên tập là GS Phạm Biểu Tâm.
 
1.2. Cơ cấu tổ chức:
 
 1946-1950: Daléas. Khoa trưởng của Faculté Mixte de Médecine et de Pharmacie thời bấy giờ là GS. P. Huard, Giáo Sư Daléas làm Phó khoa trưởng kiêm phụ trách Y Khoa nên cũng có thể xem là vị khoa trưởng đầu tiên của trường.
 
 1950-1955: Charles Massias. Sau một vài năm, các Giáo sư Pháp bắt đầu rời khỏi ban giảng huấn. Khởi đầu là việc GS. Massias từ nhiệm, và GS. Phạm Biểu Tâm lên thay thế năm 1955. GS. Phạm Biểu Tâm là vị Khoa Trưởng Việt Nam đầu tiên của Y Khoa đại học ĐườngSaigon.
 
 1955-1967: Phạm Biểu Tâm (Ngày 30.01.1967, GS. Phạm Biểu Tâm từ chức Khoa trưởng và được thay thế bằng một Hội Đồng Khoa Trưởng gồm 5 giáo sư Ngô Gia Hy, Nguyễn Ngọc Huy, Trần Anh, Lê Minh Trí và Nguyễn Thế Minh.
 
 1967-1969: Ngô Gia Hy. Đến tháng 5.1967 GS. Ngô Gia Hy được bầu lên làm Khoa trưởng nhưng đến tháng 7 thì Giáo sư được cử vào làm Thượng Hội Đồng Quốc Gia nên giao toàn quyền Khoa trưởng cho GS. Vũ Thị Thoa.
 
 1969-1970: Phạm Tấn Tước
 1970-1971: Đào Hữu Anh
 1971-1974: Đặng Văn Chiếu
 1974-1975: Vũ Quí Đài
 Từ 1969 đến 1975 các Khoa Trưởng đều được cán bộ giảng bầu lên.
 
Giáo sư Charles Massias
 
 
Giáo sư Phạm Biểu Tâm
 
 
Giáo sư Ngô Gia Hy
 
Giáo sư Vũ Thị Thoa
 
 
Giáo sư Đào Hữu Anh
 
Giáo sư Đặng Văn Chiếu
 
Giáo sư Vũ Quí Đài
 
 
 
Về đội ngũ giảng viên, Giáo sư của trường lúc ban đầu chỉ có 2 người, nên nhà trường đã dùng khả năng giảng huấn của các bác sĩ Quân y Pháp và các bác sĩ Việt Nam ở Saigon, niên khóa 1948-1949 có tới 10 Giáo Sư trong đó có GS. Massias (Nội Khoa) ở Hà Nội vào và GS. Trần Quang Đệ (Ngoại Khoa) từ Pháp về.
 
Từ 1960-1963, đội ngũ Giáo Sư nhanh chóng được bổ sung bằng các thầy tốt nghiệp Thạc Sĩ (Agrégé) từ Pháp:  GS Ngô Gia Hy (Niệu khoa), GS Trần Anh (Nhân chủng học), GS Nguyễn Văn Út (Da Liễu), GS Bùi Quốc Hương (Thần kinh), GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim mạch), GS Lê Xuân Chất (Huyết học), GS Đào Đức Hoành (Ung thư) và GS Nguyễn Huy Can (Cơ thể Bệnh lý).
Từ 1965-1966, những thầy cô đào tạo Tiến Sĩ, Thạc Sĩ từ Hoa Kỳ lần lượt trở về và phong Giáo Sư: Nguyễn Khắc Minh (Gây Mê), Bùi Duy Tâm (Sinh hoá), Nguyễn Ngọc Giệp (Phụ Sản), Vũ Quí Đài (Vi Sinh học) - Đỗ Thị Nhuận (Ký Sinh Trùng học), Đào Hữu Anh (Giải Phẫu Bệnh), Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh Trực).
 
Nguồn cán bộ giảng còn được bổ sung bằng những chuyên viên ở Châu Âu, Bắc Mỹ trở về như BS Nguyễn Thế Minh (Nội Khoa, Pháp), BS Trần Kiêm Thục (Bệnh Tiêu Hóa, Pháp), BS Trần Thế Nghiệp (Quang Tuyến, Pháp), BS Lê Dư Khương (Giải Phẫu, Đức), BS Liễu Thanh Tâm (Quang Tuyến, Pháp), BS Phó Bá Đa (Giải Phẫu, Mỹ), BS. Hoàng Minh Mậu (Tiêu Hóa, Mỹ), Lê thị Tuyết Nga (Nhi khoa, Pháp), BS. Thái văn Kim (Nhi Khoa, Pháp).
 
Đến niên khóa 1967-1968, tổng số nhân viên giảng huấn là 91, với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm viên.
 
Hàng năm, nhà trường tổ chức thi tuyển giảng viên từ nguồn Bác sĩ  trong nước, những người trúng tuyển như Văn Tần (Ngoại khoa), Võ thành Phụng (Chấn thương chỉnh hình, Phẫu thuật Nhi), Văn Kỳ Chương (Ngoại Khoa), Văn Kỳ Nam (Ngoại Khoa), Nguyễn văn Điền (Chấn thương Chỉnh hình), Lê Kính (Chấn Thương Chỉnh Hình), Đặng Phú Ân (Niệu khoa), Nguyễn Thị Bích Tuyết (Sản Phụ khoa), Trần thị Minh Châu (Sản Phụ khoa), Trần Ngọc Bảo (Nội Khoa), Trần Đình Đôn (Nhi khoa), Nguyễn Bá Duy (Nhi Khoa), Phạm Long Trung (Lao và bệnh Phổi), Bùi Quang Minh (Lao và bệnh Phổi), Nguyễn Ngọc Lĩnh (Truyền Nhiễm), Nguyễn thị Trà Mi (Da Liễu), Lê Sỹ Quang (Sinh Lý), Lê Tiến Văn (Vi Sinh), Nguyễn thị Minh Chí (Vi Sinh), Bồ Kim Khánh (Vi Sinh), Mạnh Xuân Văn (Sinh Hóa), Trần thị Hồng Nhung (Sinh Hóa), Đinh Hải Tùng (Vi Sinh), Mùi Quý Bồng (Ký Sinh học), Đỗ Danh Thụy (Ký Sinh học), Phạm văn Ngà (Giải Phẫu Bệnh), Trần Xuân Mai (Vi Nấm & Ký Sinh Học), Nguyễn Thúy San (Vi Nấm & Ký Sinh Học), Bùi đắc Chí (Mô Phôi), Phùng Hữu Chí (Tiêu Hóa), Hoàng Xuân Chỉnh (Tiêu Hóa), Nguyễn Phú Hiếu (Tiêu Hóa), Đặng Thị Bạch Yến (Tim Mạch), …. Các giảng viên này được qui hoạch để đi du học, bồi dưỡng nghiệp vụ ở Hoa Kỳ và châu Âu.  Đội ngũ nhân viên giảng huấn được sắp xếp theo 5 cấp:
 
 Giáo Sư Thực Thụ (Professeur tiltulaire)
 Giáo Sư Diễn Giảng (Professeur délégué)
 Giáo Sư Ủy Nhiệm (Professeur fonctionnel)
 Giảng Sư (Chargée de Cours)
 Giảng Nghiệm Trưởng (Assistant chef)
 Giảng Nghiệm viên (Assistant)
 
 
Những người tốt nghiệp đại học có thời gian học dưới 7 năm (Dược Sĩ, Cử Nhân, Kỹ Sư, …), thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, sẽ được bổ nhiệm Giảng Viên.
 
Những người tốt nghiệp đại học có thời gian học 7 năm (Bác Sĩ), thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, được bổ nhiệm Giảng Nghiệm Trưởng.
 
Những người tốt nghiệp Tiến Sĩ , thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, hoặc những Giảng Nghiệm Trưởng có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy, được bổ nhiệm Giảng Sư.
 
Những Giảng Sư có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Ủy Nhiệm
 
Những Giáo Sư Ủy Nhiệm có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Diễn Giảng.
 
Những Giáo Sư Diễn Giảng có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Thực Thụ
 
Từ Giảng Sư trở lên có quyền hướng dẫn Luận Án và tham gia Hội Đồng chấm Luận Án do Trưởng Khoa bổ nhiệm.
 
Đến niên khóa 1967-1968, Y Khoa Đại Học Đường Saigon có 91 cán bộ giảng với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm trưởng – giảng nghiệm viên. [5]
 
Về hệ thống trợ giảng, có các Nghiệm chế viên (préparateur) cho các bộ môn y học cơ sở. Các nghiệm chế viên này được tuyển hàng năm để trợ giảng cho đội ngũ giảng viên.  Ứng viên là các sinh viên y khoa năm thứ 4 - 6, phải qua một bài thi viết, một bài thực hành và một bài thuyết trình 5 phút trước Ban Chủ Nhiệm Bộ Môn. Nếu được tuyển dụng và chính thức bổ nhiệm, người này sẽ được hưởng một mức lương tương đương 50% lương một bác sĩ mới ra trường. Công việc chính là chuẩn bị và giảng thực tập cho sinh viên, phụ Giáo Sư tiến hành nghiên cứu khoa học (kết hợp làm Luận Án).
 
Về Nội trú các bệnh viện (Interne des hopitaux): tại các bộ môn lâm sàng có nhu cầu, nhà trường tổ chức thi tuyển nội trú. Ứng viên là các sinh viên y khoa năm thứ 5, thứ 6, phải qua một bài thi viết GIải Phẫu, Sinh Lý  và một bài thuyết trình 5 phút trước Ban Chủ Nhiệm Bộ Môn. Nếu trúng tuyển, ứng viên sẽ chính thức bổ nhiệm và ưu tiên chọn Bộ Môn/Bệnh Viện theo kết quả xếp hạng. Các nội trú vẫn tiếp tục học như các bạn khác trong lớp, phần lớn thời gian của họ là ở bệnh viện để phụ giúp các thầy/cô trong giảng dạy lâm sang và nghiên cứu khoa học (kết hợp làm Luận Án). Khi ra trường, ngoài tước vị Bác Sĩ Y Khoa, họ còn có quyền sử dụng tước vị “Cựu Nội Trú Các Bệnh Viện” trong khi hành nghề.   
 
Ngoài ra, còn có các Nội trú Ủy nhiệm (Interne fonctionnel): sinh viên năm thứ 6, nếu có nhu cầu làm việc như Nội trú, có thể xin Giáo Sư Trưởng Bộ Môn, nếu được chấp thuận, Giám Đốc Bệnh Viện nơi Bộ Môn hợp tác có thể ký quyết định bổ nhiệm, kỳ hạn 6 tháng, có thể tái hạn. Khi ra trường, ngoài tước vị Bác Sĩ Y Khoa, họ không được quyền sử dụng tước vị “Cựu Nội Trú Các Bệnh Viện” trong khi hành nghề.   
 
1.3. Sinh viên và học trình
 
Niên khóa đầu 1946-1947 chỉ có khoảng 12 người cho tất cả các lớp. Niên khóa 1947-1948 có 32 người. Niên khóa 1948-1949 tăng lên tới trên 80 người.Vào thập niên 1970 Trường Y khoa có 1400 sinh viên theo học và mỗi năm cho ra trường hơn 200 người. Số sinh viên nộp đơn dự tuyển là hơn 5.000 để chiếm 200 chỗ nhập học mỗi năm.
 
Thời đó ở Việt Nam cũng như ở bên Pháp muốn đậu bằng y khoa bác sĩ phải đậu xong hai phần tú tài (I và II), qua một năm đầu tiên tại Đại Học Khoa Học và 6 năm y khoa. Từ 1954 đến 1962 muốn vào y khoa phải có chứng chỉ PCB (Physique – Chimie - Biologie) rồi ghi danh vào học; từ 1963 đến 1969, nhà trường tuyển sinh từ Tú Tài 2, sau đó gởi sang Đại Học Khoa Học học chứng chỉ APM (Année Pré-Medicine, Dự Bị Y Khoa); từ 1970 đến 1975 đổi từ APM sang SPCN (Science naturelle - Physique - Chimie).
 
Học trình y khoa là 6 năm theo khuôn mẫu y khoa Pháp. Hai năm đầu học các môn cơ thể họcmô họcsinh hóa họcsinh lý, và triệu chứng học. Năm thứ ba và tư học các môn cơ thể bệnh lýnội khoa và ngoại khoa. Cũng hai năm này sinh viên bắt đầu đi thực tập ở các bệnh viện. Năm thứ năm và sáu chuyển sang các môn bệnh lý chuyên môn: nhi khoasản phụ khoatâm thần... và tăng thời gian thực tập ở các bệnh viện. Năm thứ sáu cũng là năm hoàn tất luận án.
 
Văn bằng Tiến Sĩ Y Khoa Quốc Gia được cấp phát sau khi bảo vệ thành công Luận Án trước Hội Đồng do Khoa Trưởng bổ nhiệm. [6]
 
Bảo vệ Luận Án Tiến Sĩ Y Khoa trước Hội Đồng
 
 Đọc lời thề Hippocrates
 
 
Số Bác sĩ ra trường hàng năm của hai trường Y ở Saigon và Hà Nội 1947-1952:   
 
     
      


 
 
Khoá ra trường đầu tiên vào năm 1947. Có 7 sinh viên trình luận án. Đó là các bác sĩ Pierre Boucheron, Trần Đình Đệ, Lê văn Hùng, Trần Minh Mẫn, Mme A. Saint Mieux, Lê Văn Thuấn và Nguyễn Văn Thọ. Trong số 7 vị này có tới 3 vị đã lựa chọn đề tài về sản phụ khoa để làm luận án, chứng tỏ sự hoạt động mạnh mẽ của bảo sanh viện Từ Dũ ngay từ hồi đó. [3]
 
Theo tài liệu của GS Nguyễn Đức Nguyên, tổng số luận án được trình và chấp thuận tại Y Khoa Đại Học Đường Saigon từ năm 1947 cho tới 1972 là 1779 luận án. Số luận án từ 1972 tới 1975 là bao nhiêu không rõ vì không có ghi chép trong tài liệu nào. Tuy nhiên với sĩ số 200 người một lớp, ta có thể ước tính là có vào khoảng trên dưới 600 luận án đã được trình trong thời kỳ đó. Như vậy, tổng số luận án ra trường của Y Khoa Đại Học Đường Saigon từ 1947 cho tới 1975 là vào khoảng 2380 luận án. [7]
 
Sinh viên Trường Đại học Y khoa Sài Gòn có ra một tờ báo định kỳ mang tên Tình Thương, xuất bản từ năm 1964 đến năm 1967 thì phải đình bản.
 
 
 
 
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: