Thứ Hai, 14 tháng 7, 2014

NỘI TRÚ BỊNH VIỆN BÌNH DÂN 1968-1970 - THỜI KHÓI LỬA


LỜI PHI LỘ:
Những dòng bút ký ngắn sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó... do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác Sĩ Mỹ - American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ trường Y Saigon.
Những sử liệu của bài viết này đều dựa trên lời tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: C. H. William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, Cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vào trường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Đào Như    

*   *  *

Võ Thành Phụng! Bây giờ anh ở đâu? Còn khỏe không? Dù sao đi nữa, khi anh đọc được những dòng hồi kí ngắn của tôi sau đây về nội trú bịnh viện Bình Dân những năm 68-70, anh cũng không đến nổi giận tôi. Mà có giận, cũng chả sao. Biết làm sao bây giờ. Viết về nội trú Bình Dân trong khoảng thời gian trên, mà không có Võ Thành Phụng thì chán chết, mất đi hứng thú như buổi lễ tốt nghiệp trường Y Sàigòn mà không có vũ sexy! 
Võ Thành Phụng không phải là gương mặt gồ ghề nhất, nổi nhất, trong hàng ngũ nội trú Bình Dân thời ấy, nhưng anh là gương mặt đặc biệt. Anh vào nội trú vào năm 66-67 đúng vào lúc phái bộ AMA của Mỹ tại Sàigòn (AMA-SAIGON) quan tâm đến cơ cấu tổ chức của trưởng Y Saigòn. Họ rất thành khẩn muốn chấn chỉnh lại trường Y Saigon từ cơ cấu tổ chức đến chương trình giảng dạy (curriculum) của trường. Nhưng họ cũng biết rằng không dể gì làm chuyện đó, khi ảnh hưởng của Tây còn quá mạnh. Còn trường Y Saigon lúc đó còn chủ quan, không chịu hiểu rằng khó mà cưỡng lại ý muốn của người Mỹ, nhất là những ý muốn của AMA tại Sàigòn (AMA-SAIGON) trong trường hợp này xem chừng rất có lý.
Chúng ta phải hiểu người Mỹ chứ. Họ làm sao vui vẻ được khi họ bỏ tiền ra xây cất một trường Y Saigon đẹp, thiết bị tối tân và tiến bộ, để rồi các ông giáo sư người Pháp và giáo sư người Việt thân Pháp dạy sinh viên Y Khoa Saigòn với ngôn ngữ Pháp và dạy theo chương trình và tư tưởng Pháp. Nhưng ngặt một điều là, trường Y Saigòn và bịnh viện Bình Dân Saigòn liên hệ với nhau như anh em sanh đôi. Ai cũng biết, tiền thân của bịnh viện Bình Dân Sàigòn là bịnh viện Phù Doãn, Hà Nôi. Nhưng trước 75, mấy ai trong chúng ta được biết bịnh viện Bình Dân Sàigòn là bịnh viện duy nhất trực thuộc bộ Quốc Gia Giáo Dục Sàigòn.
Bịnh viện Bình Dân Saigòn liên hệ mật thiết với trường Y Saigon. Giáo sư Phạm Biểu Tâm, trưởng khối Phẫu Thuật của bịnh viện Bình Dân còn được gọi là Khối Phẫu Thuật “B”, Ông cũng là khoa trưởng trường Y Sàigon.
Những bịnh viện khác: Chợ Rẫy, Nguyễn Văn Học, Nhi Đồng, Từ Dũ, Hùng Vương, Hồng Bàng, Chơ Quán... đều trực thuộc bộ Y-tế. Giáo sư Trần Quang Đệ, trưởng khối Phẫu Thuật của bịnh viện Chợ Rẫy, còn được gọi là Khối Phẩu Thuật “A”, trực thuộc bộ Y tế. Giáo sư Trần Quang Đệ lại cũng là viện trưởng Viện Đại Học Saigon. Viện Đại Học Sàigon trực thuộc bô Quốc Gia Giáo Dục, đứng trên chóp bu trường Y Saigòn.
Hai Khối Phẫu Thuật “A” và “B” lớn nhất của Saigòn thời ấy làm việc riêng rẽ, không hề liên hệ hay hợp tác với nhau trong một công trình nghiên cứu nào cả. Mỗi người một giang sơn, việc ai nấy lo. Hai ông trưởng Khối Phẫu thuật “A” và ”B” không nhìn nhau qua một đường thẳng, mà họ phải nhìn nhau qua một đường chéo ngoằn ngoèo. Đó là cái lối sắp xếp tréo cẳng ngỗng như vậy của mấy quan Tây thực dân trước khi họ rút.
Không hiểu bàng quan thiên hạ thì sao, riêng bản thân tôi mãi đến năm 1989 mới biết được những điều kỳ bí ở trên, là nhờ tôi đọc quyển sách "SAIGON MEDICAL SCHOOL" do ba người viết:  C. H. William Ruhe M.D, Norman William Hoover M.D. và Ira Singer PhD,  thuộc Hội Đoàn Bác Sĩ Mỹ AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988. 
Chắc các bạn còn nhớ bác sĩ Norman W. Hoover? Có một thời ông ta dược coi như là dean của trưòng Y Sàigòn. Chúng ta luôn luôn nhớ câu nói để đời của giáo sư Nguyễn Hữu trước khi ông rời khỏi khu nội trú Bình Dân, đi Pháp: “Có Nguyễn Hữu thì không có Hoover, có Hoover thì không có Nguyễn Hữu”! Có người nào đó vô tình diễn dịch câu ấy thoát ý: “Có Tây thì không có Mỹ, có Mỹ thì không có Tây”. Đó là hậu quả của sắc luật do ông chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ ban hành: bãi bỏ chức năng khoa trưởng trường Y, thế vào đó bằng một ủy ban (faculty committee) gồm có 5 người do ông ta chỉ định!
Nhận định về sắc luật này, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL viết: “Dean Phạm Bieu Tam, MD, a man who was revered for his academic achievement, he had been the first and only Dean of the University Of Saigon Faculty of Medecine, and he had held office for 13 years, was removed by governmental fiat in violation of the charter of the University, on the pretext that he favored the use of foreign language for instruction...” (1)
Cách chức một giáo sư khoa trưởng sau 13 năm tựu chức, có nhiều uy tín và được nhiều người mến mộ và kinh phục, chỉ vì ông ta cho phép được dùng tiếng ngoại quốc để giảng dạy. Ai cũng hiểu đó không phải là lý do chính đáng. Chắc chắn phải có những thúc đẩy, những áp lực khác sau lưng tướng Kỳ. Chín năm sau, chính tướng Kỳ thú nhận, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL tiết lộ: “Nine years later he was to write:‘It appeared lately that the background of the Coup de Faculté was more complex and it would need some research for anyone to have a clear picture!” (2)
Sắc luật của tướng Kỳ (3-1967) ra đời vô tình trùng hợp với sư có mặt của Hobbart A. Reimann, MD, tại Saigon, tháng 2-1967... Tháng 6-1967, Norman W.Hoover, bác sĩ phẫu thuật chấn thương và chỉnh trực của trường y thời danh, Mayo Clinic, thuộc tiểu bang Minnesota Mỹ đến Saigon. Bác sĩ Hoover liền được chỉ định thay thế bác sĩ Reimann làm giám đốc (Field Director) của AMA-SAIGON.
Nhân đây tôi muốn giới thiệu một vài dòng về thân thế và tầm cỡ của bác sĩ Norman W. Hoover. Muốn biết rõ thân thế và tầm cỡ của một người nào, điều thìch hợp nhất là chúng ta chỉ cần biết qua thân thế và sự nghiệp của người mà họ thay thế. Tôi muốn nói để biết rõ bác sĩ.Hoover chúng ta chỉ cần biết thân thế và sự nghiệp của bác sĩ Reimann, giám đốc AMA-SAIGON lúc ấy mà bác sĩ Hoover thay thế.
Nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL lược thuật thân thế của bác sĩ Reimann như sau: “The First Field Director (AMA-SAIGON) was Hobbart A. Reimann, MD, who had a long and distinguished carreer as professor of medicine at the Minnesota, Jefferson, and Hahnemann medical colleges, anh experience abroad with the China Medical Board at Peking Union Medical College, and in Lebanon, Indonesia, Iran, Afghanistan, and Hundura... His arrival in Saigon (February 1967) coincided with important changes in medical administration ordered by Prime Minister Nguyen Cao Ky (3-1967). The Dean of the medical school was dismissed and replaced by a faculty committee...” (3)
Hobbart A. Reimann, MD, bề thế kinh nghiệm, dạn dày như vậy mà vẫn bị Norman W. Hoover, MD, thay thế. Như thế thì ta biết Hoover, MD, là ‘tay cự phách’ như thế nào! Tôi và các nội-trú bịnh viện Bình Dân của những năm 68-70 vinh dự được bác sĩ Norman W. Hoover và giáo sư bác sĩ Hoàng Tiến Bảo trường Y Saigon, cầm tay chỉ dạy kỹ thuật điều trị bịnh lao cột sống (Pott’s Disease) bằng phẫu thuật (Hogdson’s Operation). Tôi được giáo sư bác sĩ Norman W. Hoover gửi tặng quyển sách SAIGON MEDICAL SCHOOL vào năm 1989 từ văn phòng AMA ở đường Dearborn, Chicago. 
Sau sắc luật của tướng Kỳ, là cú Mậu Thân. Saigòn hỗn loạn và trường Y thật xô bồ, kẻ lên người xuống, chà đạp nhau. Kẻ theo Tây, người theo Mỹ. Ai hơn, ai thua thì không biết, chỉ có sinh viên trường Y bị thiệt thòi: Trường đóng cửa liên miên. Lợi dụng sinh viên, bên này bắt chẹt bên kia, bãi khóa đình công dài dài. Bịnh viện Bình Dân được xây cất giữa quận Ba Saigòn, trên đường Phan Thanh Giản, gần chợ Vườn Chuối và khu Bàn Cờ, một khu đông dân nhất của Saigòn thuở ấy. Nằm giữa một “Sài-gòn tạp pín lù” vào thời ấy, bịnh viện Bình Dân làm sao tránh khỏi ảnh hưởng của thời cuộc. Dù vậy, khu nội trú của bịnh viện Bình dân lúc nào cũng hoạt động hăng say, chặt chẽ, nghiêm chỉnh.
Vâng, Võ Thành Phụng là một gương mặt đặc biệt! Không đặc biệt sao được? Anh là người Nam, dám làm nội trú của khoa Chấn Thương và Chỉnh Trực tại bịnh viện Bình Dân. “Patron” của anh là giáo sư thạc sĩ Trần Ngọc Ninh, một conservator người Bắc, ông cũng đương nhiệm bộ trưởng Văn Hóa. Tôi là bạn chí thân với Võ Thành Phụng từ thời PCB. Tuy nhiên sau này tôi ở lại lớp nhiều lần cho nên khi Võ Thành Phụng vào nội trú, tôi còn ở năm thứ Ba.
Võ thành Phụng là người sống tự lập. Những năm anh học y khoa anh sống bằng nghề précepteur, kèm trẻ tại tư gia các gia đinh người Pháp tại Saigon. Anh được trả lương rất là hậu hĩ. Những năm 61-63, tôi biết, khi đó, tiền anh kiếm bằng nghề dạy học được lắm, gần bằng lương bộ-trưởng cùng thời. Dĩ nhiên anh phải là rất xuất sắc về Toán. Anh rất đam mê về khoa học. Những cô đầm học trò của anh thuôc thế hệ Yé Yé thời đó, thật xinh đẹp. Có cô sau một năm học trở thành người yêu của thầy. Cũng YéYé, cũng ra riết lắm! 
Tôi nhớ lại, đã được nhận làm nội trú ủy nhiệm vào khoảng đầu năm học 69, sau khi bị tai nạn xe Jeep nhà binh Mỹ cán gẫy kín xuơng đũa và sai khớp cổ chân trái, hồi cuối Mậu Thân. Lúc ấy tôi đang học năm thứ Tư. Tôi được Thầy Hoàng Tiên Bảo điều trị. Nhớ ơn Thầy và cũng vì bản thân đã một lần chịu đựng tai biến của chấn thương, nên đầu năm thứ năm tôi xin đầu quân làm nội trú ủy nhiệm  khu  chấn  thương  và  chỉnh  trực  tại bịnh viện  Bình Dân.  Khi được nhận làm nội trú ủy nhiêm, tôi tìm hiểu ngay những sinh viên nội trú đang ở trong khu nội trú (dorm) bịnh viện Bình Dân.
Tôi rất ngạc nhiên bác sĩ Nghiêm Đạo Đại và ông lão làng nội trú Võ Thành Phụng vẫn còn trong dorm nội trú Bình Dân. Khi gia nhập vào khu nội trú, tôi luôn nhớ nhập tâm là tôi là người lớn tuổi nhất trong khu nội trú, và cũng là người duy nhầt làm nội trú ủy nhiệm (interne fonctionnel) giữa tất cả anh em nội trú thực thụ (interne titulaire). Biết phận mình, tôi rất thủ thế. Tôi đã may mắn được bác sĩ nguyên nội trú Nghiêm Đạo Đại cho vô ở cùng phòng.
Nội trú Võ Thành Phụng liên tiếp nhiều năm được bầu làm chủ tịch, “xếp sòng” của khu nội trú. Anh cũng là ‘ông bầu” của những cuộc vui của khu nội trú. Giáo sư Đào Đức Hoành là người trực tiếp chịu trách nhiệm tinh thần và tổ chức của khu nội trú Bình Dân. Dĩ nhiên giáo sư Hoành nhiều khi phải đối phó chật vật với nội trú Võ thành Phụng, một trưởng khu nội trú chịu chơi và quá cởi mở!
Anh em nội trú cho tôi hay, trước đó giáo sư Đào Đức Hoành đã nhiều lần khiển trách nội trú Võ Thành Phụng vì anh tổ chức những cuộc vui cuối năm trong khu nội trú với vũ sexy, làm bại hoại và suy đồi đạo đức của sinh viên nội trú. Nhưng nói là nói vậy, giáo sư Hoành lúc nào cũng quí Võ Thành Phụng, một nội trú tài ba và tận tụy của bịnh viện Bình Dân trong mấy năm qua. Võ Thành Phụng đã bảo anh em: “Thầy là cha mẹ, răn đe con cái là chuyện thường. "Moi" muốn làm sao cho anh em mình vui là được rồi”. Đó là trật tự sẵn có, được sắp xếp trong nhiều năm của khu nôi trú Bình Dân trước khi tôi dọn vào hồi tháng 8/1969…
Tôi cũng xin nói thêm về anh lao công của khu nội trú Bình Dân, anh Tư Được. Tư Được nom có vẻ gầy, chân đi hàng hai, răng hô. Anh đem một vợ ba con nhét vào trong một phòng 6 mét vuông, dành cho y công, ăn ở trong bịnh viện luôn! Tư Được chăm sóc vệ sinh của khu nội trú và đồng thời chăm sóc cà phê buổi ăn sáng, trưa và tối của sinh viên nội trú. Cà phê anh làm cho chúng tôi uống thật đặc biệt. Nếu nó đắng thì cũng may với những ai có chút tâm hồn lãng mạn, nghe đến ‘ly cà phê đắng’ thấy thích. Đằng này không phải vậy. Nó chua và chát, mầu đen sẫm, uống vào nghe nhờn nhợn. Tuy nhiên uống mãi rồi cũng quen. Chúng tôi đặt cho nó một cái tên rất thời trang: "Cà phê Tư Được".
Cũng như toàn thể sinh viên nội trú thuộc bịnh viện Bình Dân trong những năm 67, 68, 69, nội trú Võ Thành Phụng làm việc thật hăng say. Anh chấp hành nghiêm chỉnh những phương sách điều trị của các giáo sư cho bịnh nhân, chăm sóc và chịu trách nhiệm tại phòng Ngoại Chẩn của Chấn Thương và Chỉnh Trực. Anh thăm phòng bịnh thuộc khu trực thuộc patron của anh. Trong những ‘ca’ mổ chọn lọc (elective surgery) dành cho giáo sư patron, nội trú Võ Thành Phụng bao giờ cũng vô phòng mổ trước và sửa soạn bịnh nhân cẩn thận. Anh luôn luôn là người ‘First Aid’ cho thầy trong những ‘ca’ mổ của ông tại bịnh viện Bình dân, cũng như những bịnh viện tư ở ngoài như Saint Paul, Triều Châu, Sùng Chính...
Những sinh viên nội trú của khu Ung Thư, Giải Phẫu Tổng Quát, Tiết Niệu cũng làm tương xứng như vậy với patron của họ. Tôi thấy mọi người tất bật túi bụi cả ngày, chạy từ phòng bệnh lên phòng Mổ, chăm nom phòng Ngoại Chẩn, phụ các giáo sư dạy lâm sàng cho các sinh viên đi thực tập.
Anh Phụng cũng là chuyên viên thuyết trình những Cas Presentation. Nếu có lúc nào rảnh hay buổi chiều sau giờ làm việc, thì anh chạy lại nhà in Mỹ Hiệp xem họ in tờ báo TÌNH THƯƠNG (do sinh viên y khoa Saigòn chủ trương) có đúng theo yêu cầu không? Đó là chưa nói những lúc anh đi cầu cạnh hết người này đến người khác viết bài. Nhưng vất vả nhất vẫn là chạy tìm mối quảng cáo để có tiền trả nhà in. Nhiều lúc tôi thấy anh tất tả chạy đến Trang Hai, Phan Nhàn, Ténamid, Roche, Roussell, Specia, La thành Nghệ… xin họ ủng hộ tờ báo bằng cách đăng quảng cáo trường kỳ.
Trong những dịp tổ chức hội hè: cuộc vui cuối năm, Giáng Sinh, Tết nhất, hay những buổi lễ tốt nghiệp Y Khoa Saigòn mà không có Võ Thành Phụng nhúng tay vào là chắc chắn mất vui. Anh là “ông bầu” của những tiết mục hấp dẫn. Anh thường hay say li bì. Mỗi chiều, cứ đúng sáu giờ chiều và không phải trực thì anh lên phòng nội trú, tắm rửa, diện vào, rồi lái chiếc Lambretta ra ngòai ăn tối tại một nhà hàng nào đó. Sau đó ghé thăm em út. Năm đầu còn có người phàn nàn chỉ trích anh, nhưng rồi anh em cũng quen. Vả lại càng về sau các nội trú mới càng kính nể anh, với cái tánh say rượu dễ thương.
Chỉ có tôi là bạn lâu đời chưa hề thấy anh ấy say sưa lần nào. Về chuyện này anh hoàn toàn giữ kín với tôi, trong khi chuyện bạn gái thì lại chân thành công khai. Vào những buổi tối cuối tháng mười năm 70, không hiểu sao Võ Thành Phụng say li bì. Một tối nọ về khuya say khước, dựng chiếc Lambretta không nổi, anh bước lên lầu ba la ó om xòm, Rồi khoảng 5 phút sau, phòng anh im bặt. Sợ có khi quá chén người say bị trụy tim mạch không chừng, tôi bèn xô cửa bước vào thì thấy Võ Thành Phụng đang ngồi chong đèn, hai tay ôm đầu. Ngước mắt nhìn tôi bất ngờ anh hỏi:
- "Toi" có quen anh Tùng không?
- Anh Tùng nào?
- Trần Minh Tùng, bộ trưởng…
- Không! Mà chuyện gì vậy?
- Tờ TÌNH THƯƠNG đang bị kiểm duyệt đục, có thể bị đình bản. "Moi" đang tìm người cứu nó!
Tôi sửng sốt nhìn anh và bất giác nói:
- À ra thế!
Phụng nhìn tôi mỉm cười hơi chua chát. Trong ánh đèn lờ mờ anh ngước bộ mặt thiểu não hỏi tôi :
- "Toi" có biết hồi trưa nay làm sao không?
- Hồi trưa này là sao?
- Hồi trưa có một nhóm sinh viên Y và cả các thầy cùng kéo đến văn phòng khoa trưởng Phan Tấn Tước, hình như họ muốn làm áp lực để ông ấy... phải đi!
- "Moi" biết "toi" quý giáo sư Tước lắm mà!
Võ Thành Phụng vụt đứng dậy, chạm phải cây đèn làm nó chao chao ngã xướng chân giường. Anh la lớn:
- Trời ơi! thích hay không thích! quý hay không quý cái mẹ gì?! Từ ngày bãi nhiệm giáo sư Phạm Biểu Tâm đến bây giờ, kẻ lên người xuống, máu đổ thịt rơi. Hai giáo sư bị giết chỉ trong vòng hai tháng. Một sinh viên bị ném từ trên lầu xuống chết ngắc! Bây giờ họ muốn gì? Họ muốn gì? Muốn giềt ai nữa đây? Muốn giết các thầy còn lại nữa sao?
Anh quát tháo ầm ĩ đuổi tôi ra khỏi phòng và ngồi xuống bưng mặt khóc ngất. Tôi đến dựng lại cây đèn, dìu anh lên giường nằm và kéo chăn đắp cho ấm. Anh nghiêng người, tôi thấy quần anh ướt. Say quá rồi. Thương anh vô hạn. Tôi đi nhẹ vế phòng cố ru giấc ngủ. Bấy giờ hơn hai giờ sáng. Thấy Nghiêm Đạo Đại đang ngon giấc, thở thật đều trong giấc ngủ vô cùng bình yên.
Tôi nghĩ về Nghiêm Đạo Đại. Tôi nghĩ về Võ Thành Phụng… Cả hai đều là những con người ưu tú của "xã hội-sinh viên-Y Khoa Saigon" thời ấy, thông minh, kiệt xuất, thương người, và hy sinh cho sự nghiệp Y học. Nhưng tại sao bề ngòai các anh khác nhau nhiều quá vây? Người thì sống đời hài hòa an lạc, kẻ lại có cuộc sống đầy xôn xao giao động. Tôi đi vào giấc ngủ với thoáng bâng khuâng. Sáng hôm sau, nhìn đồng hồ hơn 8 giờ, bác sĩ Nghiêm Đạo Đại đã xuống thăm phòng bịnh từ sáng sớm. Tôi vội mặc áo chạy qua phòng nội trú Võ Thành Phụng xem sao? Thấy anh chàng đã thơm phức trong blouse trắng. Tôi bảo:                    
- "Moi" đến mời "toi" chầu cà phê Tư Được đây.
Võ Thành Phụng đi theo tôi. Vừa cúi xuống rót cà phê anh vừa nhìn xuống lầu nơi bãi đậu xe. Rồi la lớn:
- Không được! Tên nào nghịch quá trời, xô ngã lambretta của "moi".
 - "Toi" có chắc không? Hồi khuya ông ngất ngưỡng trở về, dựng xe đâu có nổi!
- Đêm qua "moi" về sớm ngủ hết biết!
Và anh chạy vụt xuống lầu. Nhìn theo anh mà mừng, anh không còn nhớ những gì đã xảy ra đêm qua.
Sau gần 40 năm, ngồi viết đến đây tôi vẫn còn ngậm ngùi nghĩ về Võ Thành Phụng, người bạn thời tuổi trẻ. Tôi hồi tưởng lại những gì xảy tại trường Y Sàigòn trong những năm tháng 67-70 và sau đó... Những thay đổi, xáo trộn của nhà trường đã ảnh hưởng đau thương đến tâm hồn người sinh viên y khoa thuở đó. 
Giáo sư Phạm Biểu Tâm, một vị lương y mẩu mực, được mọi người ngưỡng vọng, sau 13 năm giữ chức Khoa Trưởng Trường Y bị bãi nhiệm năm 67. Một ủy ban gồm năm người do tướng Kỳ chỉ định đã thay thế ông. Ba tháng sau có một cuộc bầu cử giữa năm người trong ủy ban đó: giáo sư Ngô Gia Hy, giáo sư Trần Anh, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, giáo sư Lê Minh Trí và bác sĩ Nguyễn Thế Minh. Kết quả là giáo sư Ngô Gia Hy đắc cử làm khoa trưởng trường Y Saigòn vào tháng 5 năm1967.
Theo lời thuật của nhóm tác giả  SAIGON MEDICAL SCHOOL thì hai tháng sau, vào tháng 7/67 giáo sư Ngô Gia Hy tuyên bố sẽ ra tranh cử thượng nghị sĩ Sàigòn. Ông liền bị tố cáo dùng chức quyền khoa trưởng trong mưu đồ chính trị, và rồi bị truất quyền trong vòng ba tháng. Bác sĩ Vũ Thị Thoa, đương nhiệm phó khoa trưởng đã lên làm khoa trưởng lâm thời. Sau khi thất cử thương nghi sĩ ba tháng sau, tháng 10/67, giáo sư Ngô Gia Hy lại trở về làm khoa trưởng trường Y Saigòn. Lần trở lại này uy tín của ông đã bị sụp đổ.
Chắc chúng ta ai cũng thắc mắc về “sắc luật” 1967 của Tướng Kỳ, vi phạm nền tự trị Đại học, bãi chức Khoa Trưởng Trường Y và thế vào bằng một ủy ban gồm có 5 người do ông ta chỉ định. Nhất định phải có kẻ hoạt đầu chính trị đứng sau lưng tướng Kỳ. Hay cũng có thể có "bàn tay lông lá" nào đó buộc tướng Kỳ phải chấp nhận "planning" như vậy. Theo nhóm tác giả của SAIGON MEDICAL SCHOOL, chính bác sĩ Lê Minh Trí tự nhận mình là kẻ đứng sau tướng Kỳ trong vụ này:
“The fact was an ambitious young man, Lê Minh Trí, MD, claimed to be, and was, the instigator. He believed that medical education in VietNam had to be changed, knew many of changes that needed to be made, and believe that they could be made quickly only by removal of those who self-interest seemed to be serve by the status quo”. (4)
Bác sĩ Lê Minh Trí mới vừa từ Mỹ về sau 6 năm tu nghiệp y khoa. Cũng như các bác sĩ khác tu nghiệp lâu năm tại Mỹ, ông được cấp bằng PhD. Bác sĩ Lê Minh Trí mới trở về trường Y Sàigòn, áo khoác chưa kịp ráo mồ hôi mà ông đã có tên sẵn trong danh sách Ngũ Đầu Chế của Tướng Kỳ. Lạ thật! Liệu những lập luận bên trên của nhóm bác sĩ Ruhe, Hoover, và Singer PhD về bác sĩ Lê Minh Trí có đúng sự thật không? Hay đó chỉ là giả thiết, và tệ hơn nữa nếu đó là bịa đặt?
Có lẽ cũng cùng ý nghĩ như thế mà chín năm sau, trong một phút ăn năn, Tướng Kỳ hy vọng sau này sẽ có ai soi rọi lại cho sáng tỏ vấn đề phức tạp này: “It appeared lately that the background of the ‘Coup de Faculté’ was more complex and it would need some research for anyone to have a clear picture...” 
- Ngày 29/1/68, biến cố Mậu thân, tòan thể đại học Saigòn đóng cửa. Tất cả sinh viên đi tập Quân Sư Học Đường.
- Ngày 1/4/ 68, đại học Saigòn mở cửa lại.
- Ngày 2/5/68, Mậu Thân đợt 2, trường lại đóng cửa!
- Ngày 18/6/68, trưòng mở cửa lại.  Niên khóa năm đó kết thúc muộn vào ngày 15 /8/ 68.
- Tháng 9/68, theo lời tường thuật của nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL, bác sĩ Lê Minh Trí được tướng Kỳ bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục. Cùng thời gian đó viện trưởng Viện Đại học Saigòn là giáo sư Trần Quang Đệ đi nghỉ hè ở Pháp. Cũng như mọi năm trước, giáo sư Trần Quang Đệ vẫn quen nấn ná ở lại Pháp khá lâu sau mỗi vụ nghỉ hè. Với tư cách bộ trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục, bác sĩ Lê Minh Trí đã cách chức giáo sư Trần Quang Đệ, cho rằng ông ta là kẻ đào nhiệm. Sau đó bác sĩ Lê Minh Trí chỉ định giáo sư Trần Anh làm viện trưởng Viện Đại Học Sàigòn. Vào lúc đó giáo sư Trần Anh cũng đã thay thế giáo sư Nguyễn Hữu làm giám đốc Cơ Thể Học Viện.
- Ngày 1/11/68, lại một cuộc vận động bầu bán ghế khoa trưởng trường Y Saigon. Người đắc cử là bác sĩ Phan Tấn Tước, giáo sư phụ giảng (professeur délégué). Theo nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL: “Ông ta ít được nhiều người biết đến”. Ngày bác sĩ Phan Tấn Tước nhậm chức, nhóm tác giả  SAIGON MEDICAL SCHOOL đã viết: “He came into office as a dark horse!” (5) Tôi thật sự không hiểu họ muốn nói gì về bác sĩ Phan Tấn Tước qua từ ngữ “dark horse”. Dù sao thì sự "lên ngôi khoa trưởng’ của bác sĩ Phan Tấn Tước cũng tạo được một tình thế ổn định hành chánh cho trường Y Saigòn, tuy chỉ là tạm bợ.
- Ngày 6/1/69 bác sĩ Lê Minh Trí, đương kim bộ trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục Sàigòn bị ám sát. Nói về cái chết của bác sĩ Trí, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL viết: “Bác sĩ Lê Minh Trí là người trẻ, tham vọng, ăn nói không biết kiềm chế, đi lại không cần bảo vệ”. Và lạ lùng thay, nhóm bác sĩ Ruhe, Hoover và Ira Singer Ph.D viết thêm một điều mà chúng ta chưa hề nghe nói đến bao giờ: “Bác sĩ Lê Minh Trí tự hào về quá khứ của ông: Ông đã được rèn luyện thành một chiến sĩ du kích trong rừng sâu theo phong trào Việt Minh, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp”! 
Nhắc về sự kiện này, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL đã viết: “Dr Trí had been away from Vietnam for 6 years taking graduate training in the US ..He was proud to have been a trained guerilla in the jungle fighters with the Viet Minh during the war with the French. He was fearless. He spoke without restraint and traveled without protection...” (6)  
Sau đó hai tháng, bác sĩ Trần Anh, viện trưởng Viện Đại Học Sàigòn, giám đốc Viện Cơ Thể Học Saigòn, bị ám sát chết cách nhà ông khoảng 100 mét, lúc đang đi bộ từ trường Y về nhà trong khu Đại Học Xá Minh Mạng.
Bầu không khí khủng hoảng và lo sợ đã phủ xuống Trường Y Sàigòn. Ai ai cũng hiểu cái chết của giáo sư bộ trưởng Lê Minh Trí và giáo sư Trần Anh đều liên quan đến sự can thiệp của phái bộ AMA-SAIGON của Mỹ vào nội tình trường Y Saigon. Nhất là người ta còn nhớ lại cách đó không lâu cũng tại trường Y Saigon, trong thời gian giáo sư Ngô Gia Hy còn làm khoa trưởng, một nam sinh viên y khoa năm thứ tư đã bị ném xuống chết không kịp trối từ lầu cao Bio-Chemistry! Nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL đã viết về suy nghĩ của ban giảng huấn trường Y Sàigòn như sau: “Sau đó một thời gian dài, ban giảng huấn người Việt của trường Y Saigon tỏ vẻ sợ sệt và lạnh nhạt với phái bộ Mỹ AMA-SAIGON ”.
Nói về cái chết của bác sĩ bộ trưởng Lê Minh Trí và bác sĩ viện trưởng Viện Đại Học Saigon Trần Anh cùng thái độ nghi kỵ sợ sệt của ban giảng huấn người Việt tại trường Y Saigon đối với nhân viên của tổ chức AMA-SAIGON lúc đó, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL viết:
“The stability within the facility was uneasy at best and fell entirely on January, 6, 1969, with the assassination of the Minister of Education, Dr Tri. A grenade was thrown into his automobile. Just two months later Dr Anh, the Rector of  the University was killed by multiple gunshot inflicted at closed range  while he walk from his from the medical school to his home one block away. The mystery that surrounded the two assassinations produced an atmosphere of apprehension throughout the medical school. It had particular significance to AMA because it was generally concluded that the assassinations, by whatever by opposing force, were related to the medical school changes to which the U.S. had contributed. The Faculty of Medecine asked that the project continue but that it operate as unobstrusively as possible, since no one knew what part association with Americans may have played in the fate of DR Tri and Anh. For a long time afterward, the Vietnamese Faculty show restraint in its association with Americans…” (7)
Liền sau đó đã có nhiều biến cố và khủng hoảng liên tiếp xảy ra tại trường Y Saigon. Những ngày thi cuối năm phải dời đổi nhiều lần... Ngày thi cuối năm của niên khóa 1970 được ấn định vào 10/8/70. Nhưng vào thời điểm này sự liên hệ giữa giáo sư khoa trưởng Phan Tấn Tước và ban giảng huấn trường Y Sàigòn trở nên suy đồi. Ban giảng huấn và một số sinh viên yêu cầu giáo sư Khoa Trưởng phải từ nhiệm. Giáo sư Phan Tấn Tước từ chối. Lại bãi khóa đình công không thi cử. Mãi đến tháng 11/70 thì cuộc thi cuối năm mới bắt đầu, sau khi biết chắc giáo sư khoa trưởng Phan tấn Tước từ nhiệm.
- Tháng 12/70: Bác sĩ giáo sư Đào Hữu Anh, đương kim phó khoa trưởng lên làm khoa trưởng lâm thời trường Y Saigòn. Đó cũng là lúc giáo sư Phan Tấn Tước từ nhiệm. Bác sĩ Đào Hữu Anh là một nhân vật trầm mặc, kín đáo. Ông là giáo sư trưởng khoa Cơ Thể Bệnh Lý-Anatomy Pathology, trưởng phòng thí nghiệm Anapath của trường Y Saigon. Sau khi tu nghiệp ở Mỹ, ông trở lại trường Y Saigòn vào những năm 60. Từ đó không hiểu do thế lực nào, hay là vì quá khứ đạo đức y học mà giáo sư Đào Hữu Anh đã luôn nắm chặt chức phó khoa trưởng trường Y Saigòn cho đến ngày 30/4/75. 
- Tháng 12/71 bác sĩ giáo sư Đặng Văn Chiếu được bầu làm khoa trưởng trường Y Sàigon. Để đánh dấu giai đoạn lịch sử này, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL hạ bút: “At the end of 1971 there was hope for internal stability in the medical school with the election of ĐangVanChieu, MD, as Dean, Dr Chieu, Professor and Chairman of Department of Neurological Surgery was elected as favorise of both sides and not concession of either. With his entry into office in January, 1972 there seemed to be real promise of prolonged period of cooperation.” (8)
Những lời phát biểu ở trên của nhóm bác sĩ Ruhe, Hoover và Ira Singer PhD có vẻ chủ quan phấn nào, khi họ bảo giáo sự Đặng Văn Chiếu được bầu làm khoa trưởng trường Y là do sự ủng hộ của cả hai phía Việt và Mỹ, chứ không phải do sự nhường nhịn của bên này hoặc bên kia. Thật sự giáo sư Đặng Văn Chiếu là người Nam, vốn dĩ điềm đạm hòa nhã, đã được mọi người và sinh viên mến chuộng. Ông đã được sự ủng hộ của cả hai phía Việt cũng như Mỹ, nhất là từ phía phái bộ AMA-SAIGON.
Thật ra vào tháng 12/1971 khi giáo sư Đặng văn Chiếu lên làm khoa trưởng, thì tất cả ban giảng huấn người Việt cũng như sinh viên trường Y Saigòn hoàn toàn mệt mỏi, khiếp sợ, chán chường trước mọi thay đổi và chết chóc. Trường Y Saigon đã phải trả giá quá đắt cho sự can thiệp đẫm máu của phái bộ AMA-SAIGON, bằng cái chết của hai giáo sư Lê minh Trí, Trần Anh cũng như sinh mạng của sinh viên y khoa "rớt" từ lầu cao xuống sân trường. Ho chết không trối trăn được một lời.
Tinh thần trường Y Saigòn vào thời điểm này coi như đã thuần. Mọi người đều hy vọng ngày giáo sư Đặng Văn Chiếu nhậm chức khoa trưởng, tháng 12/1971, sẽ mở đầu một thời kỳ hòa bình, ổn định, hợp tác về lâu về dài giữa trường Y Saigon và phái bộ AMA-SAIGON. Sau ngày nhậm chức của giáo sư Đặng Văn Chiếu cũng có xáo trộn, nhưng giáo sư Đặng Văn Chiếu đều vượt qua nhờ sự ủng hộ tích cực của Mỹ và Việt. Giáo sư Đặng Văn Chiếu vẫn là Khoa trưởng trường Y Sàigòn cho đến ngày Saigòn thất thủ 30/4/75. Giáo sư Chiếu và gia đình sau đó được di chuyển sang Mỹ an toàn.
Bây giờ nhớ lại cái chết tức tưởi của thầy và bạn, chúng ta vô cùng thương tiếc họ. Đồng thời chúng ta cũng thật sự kiêu hãnh về truyền thống trường Y Saigòn và bịnh viện Bình Dân, luôn luôn gìn giữ nếp cao đẹp. Mặc dầu dưới bất cứ áp lực thời thế tệ hại cách mấy đi nữa, thì sinh viên trường Y Sài gòn vẫn tiếp tục đi học và thực tâp tại bịnh viện, trừ những khi phải tham dự huấn luyện Quân Sự Học Đường.
Sinh viên nội trú, bác sĩ, giáo sư luôn có mặt trong bịnh viện, bên cạnh bệnh nhân. Họ tiếp tục học hỏi, giảng dạy và theo đuổi những công trình nghiên cứu. Tại bịnh viện Bình Dân, tập thể bác sĩ cùng nội trú và sinh viên luôn quy tụ quanh thầy Phạm biểu Tâm (dù cho thầy đang tại chức khoa trưởng hay bị bãi nhiệm). Các vị giáo sư Ngô Gia Hy, Trần Ngọc Ninh, Hòang Tiến Bảo, Đào Đức Hoành… đã tích cực thực hiện phẫu thuật, giảng dạy, nghiên cứu, ngày cũng như đêm.
1968, 69, 70 là những năm mà khu Phẩu Thuật “B” bịnh viện Bình Dân phát triển cơ cấu kỹ thuật theo tiến bộ mới. Các sinh viên nội trú ngoại khoa (surgical) phần nhiều tụ tâp về đây. Bác sĩ giải phẫu Norman William Hoover, chuyên về Chấn Thưong Chỉnh Trực từ trường Y Mayo Clinic thời danh của Mỹ tại Minnosota đã từng đến Viêt nam vào năm 1967 để thay thế bác sĩ Reimann làm giám đốc (Field Director) AMA-SAIGON. Ông đến bịnh viện Bình Dân, hợp tác với các giáo sư Hoàng Tiến Bảo, Trần Ngọc Ninh, nội trú Võ Thành Phụng trong công trình nghiên cứu mới về giải phẫu điều trị chứng Lao Cột Sống: Hogdson’s Operation (9).
Giáo sư Trần Ngọc Ninh và Hoàng Tiến Bảo cùng sự công tác của nội trú Võ Thành Phụng đã kiện toàn phẫu thuật thay thế khóp háng (hip release), khớp gối (knee release) và đóng đinh cổ xương đùi (Smith Petterson Nailing) cũng như đóng đinh gẫy kín xương chầy. Giáo sư Hòang Tiến Bảo cùng các cộng sự viên, nội trú Nguyễn Quang,,, từng theo đuổi công trình nghiên cứu Bướu Các Phần Mềm (Tumeurs des Parties Molles) và thẩm định tánh chất của Bướu Tế Bào Lớn (Giant Cell Tumors). Tôi cũng được vinh dự tham gia các công trình kể trên tại khu Chấn thương và Chỉnh Trực mặc dầu với một vai trò thứ yếu.
Cùng trong những năm này tại khu Ung Thư bịnh viện Bình Dân, giáo sư Đào Đức Hòanh (với sư cộng tác của bác sĩ Dương, nội trú Nguyễn Chấn Hùng, và nội trú Lâm Văn Năm sau đó) đã tận lực phát triển kỹ thuật giải phẫu Wertheim, và Halsted (10) đến độ nhuần nhuyễn. Các khu Giải Phẫu Tổng Quát của giáo sư Phạm Biểu Tâm (với sự cộng tác của bác sĩ Huấn, Tuyến, Lân, Nghiêm Đạo Đại, và nội trú Văn Kỳ Chương), khu Tiết Niệu của giáo sư Ngô Gia Hy (với nội trú  Đặng Phú Ân, Nguyễn Hiệp) cũng như tất cả các khu khác trong bịnh viện đều theo đuổi những công trình nghiên cứu và phát triển chuyên biệt.
Nhận xét về những dữ kiện trên, phái bộ AMA Sàigòn đành phải thú nhận sự thật như sau: “War and Politics obsviously interfered with the process of medical education in VietNam. Nevertheless, medical students continued to apply themselves and continue to learn medicine even during the most serious disruptions… Perhaps this provides evidences that students continue to seek knowledge at any opportinuity if available, eventhough adverse conditions interfere with the regular teaching process” (11)
Có điều làm chúng ta ngạc nhiên là trong phần bạt hậu (Epilogue) của SAIGON MEDICAL SCHOOL, các tác giả kiêu hãnh lập lại lời báo chí Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khen tặng họ vào ngày 1/5/1975: “The Americans are not very good at fighting a war, but they do know how to build a very good medical school.” (12) Vâng, người Mỹ biết làm thế nào để xây dựng một trường Y tân kỳ, tiến bộ về kỹ thuật. Nhưng người Mỹ xây dựng trường Y Saigòn bằng sự can thiệp đẫm máu vào nội bộ tổ chức của trường Y Saigòn một cách quá tệ hại. Viết tới đây, mặc dầu đã là công dân Mỹ hơn 20 năm, tôi vẫn thấy mình chưa vượt khỏi cái bóng của quá khứ, chưa vượt khỏi thân phận người dân của quốc gia nhược tiểu, bị đô hộ và bị cai trị.                                                            
Thời gian nhanh như bóng câu qua cửa! Mới đó mà anh em nội trú Bình Dân Saigon từ những năm 68-70 đã xa nhau gần 40 năm! Biết bao vật đổi sao dời. Biết bao mất mát không gì đền bù nổi.
-  Cách đây mấy năm, thầy Phạm Biểu Tâm qua đời tại Cali.
-  Thầy Đặng văn Chiếu qua đời vào ngày 27/6/2004 tại Cerratos, Cali.
-  Thầy Ngô Gia Hy qua đời vào ngày 26/10/04 tại Saigon.
-  Thầy Hoàng Tiến Bảo qua đời vào ngày 20/1/2008 tại Alhambra, Cali.
-  Giáo sư Nguyễn Hữu qua đời vào ngày 15 tháng 10 năm 2008 tại Brest, Pháp
-  Bác sỉ Trần Minh Tùng, người anh đầu đàn khả kính và thân thiết của chúng ta cũng vừa qua đời vào ngày 22 tháng 10 năm 2008 tại Cali …
Còn ai nữa trong các Thầy, các bạn đã ra đi trong lãng quên của chúng ta? Cuộc đời và chiến tranh làm chúng ta mất hút nhau trong màu khói lửa. Võ Thành Phụng! Bây giờ anh ở đâu? Còn khoẻ không? Anh vẫn tiếp tục dạy học tại trường Y Saigòn? Vẫn trao dồi giải phẫu hàng ngày? Anh có còn những đêm say sướt mướt nữa không? Còn ai để anh chia sẻ trong cơn say? Tôi lúc nào cũng nghĩ về anh. Tôi luôn luôn nuối tiếc những năm tháng nội trú tại binh viện Bình Dân Sàigòn 68-70 như “Thời Vàng Son” trong cuộc sống của chúng ta, của bạn bè cùng thế hệ.
Biết bao thay đổi ngoài đời, biết bao thay đổi trên ghế khoa trưởng trường Y Saigòn trong những năm tháng đó?! Ấy thế mà mỗi khi các giáo sư, bác sĩ, nội trú, sinh viên y khoa bước vào phía trong cánh cửa bịnh viện Bình Dân thì tình nghĩa trước sau là một, với tâm hồn không bao giờ thay đổi. Thầy trò anh em gắn bó, cùng dìu dắt nhau phục vụ bịnh nhân, nghiên cứu phát triển ngành nghề qua những chặng đường khó khăn nhất của lịch sử đất nước. Võ Thành Phụng, tôi mong anh còn khoẻ. Tôi mong anh đọc đuợc những dòng bút ký ngắn này. 

Mong các thầy, anh em chúng ta, những ai còn sống sót sẽ gặp lại nhau trên quê hương Việt Nam...

ĐÀO NHƯ
(Bác sĩ Đào Trọng Thể)
Oak park, Illinois USA, 4/21/05 (Sửa chữa lần cuối ngày 3/3/2009)

NB:  Bác sĩ Võ Thành Phụng, giáo sư đầu ngành Chấn Thương và Chỉnh Trực trường Y Saigon đã qua đời tại Saigon vào năm 2011.   

GHI CHÚ:

(1) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54
(2) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang  54
(3) SaigonMedical School, Edi.  1988, trang  39
(4) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54
(5) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 56
(6) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54 
(7) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 56
(8) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 58
(9) Hogdson’s Operation: Kỹ thuật giải phẫu của bác sĩ Hogdson trong điều trị lao cột sống thực hiện đầu tiên tại Hong Kong. Chính bác sĩ Norman W. Hoover là người đầu tiên truyền bá và giảng dạy phương pháp này tại Orthopedic Department, bịnh viện Bình Dân Saigon vào năm 1968 cho các nội-trú.
(10) - Wertheim: Phẫu thuật cắt bỏ tử cung, phần phụ và hạch, trong điều trị ung thư tử cung 
       - Halsted: Phẫu thuật cắt bỏ nhủ hoa, cơ bắp kế cận và hạch, trong điều trị ung thư vú.
(11) Saigon Medical School, Edit.1988 - trang 60

(12) Saigon Medical School, Edit, 1988 - trang 259   

Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, Người Thầy Y Khoa Và Người Hướng Đạo Gương Mẫu

VIỆT NGUYÊN 
LTS - Từ Bàn Việt Houston là cột mục bàn về các vấn đề thời sự từ chính trị tới kinh tế, văn hóa...do nhà báo Việt Nguyên trong ban biên tập Ngày Nay phụ trách. Ông cũng là một bác sĩ làm việc tại Houston

Giáo Sư Phạm Biểu Tâm (bên trái) Đứng Cạnh TT Ngô Đình Diệm 
Nhân Ngày Khánh Thành Trường Y Khoa Miền Nam năm 1962
  Tập San Y Sĩ của hội Y Sĩ Việt Nam tại Gia Nã Đại đến với tôi qua hai đàn anh y khoa, bác sĩ Nghiêm Đạo Đại và Lê Quang Dũng, là tập san đặc biệt tưởng niệm giáo sư Phạm Biểu Tâm một người thầy đáng kính của nền Y Khoa Việt Nam.  Tập san tổng hợp nhiều cây viết và tiếng nói qua các đàn em, bạn và đồng nghiệp của ông như các giáo sư Trần Ngọc Ninh, Đào Đức Hoành, Đào Hữu Anh, Vũ Qúi Đài, Nguyễn Khắc Minh, BS Trần Văn Tích, BS Nghiêm thị Thuần cùng những học trò đã nổi danh trong nghành phẫu thuật như các bác sĩ Nghiêm Đạo Đại, Trần Xuân Ninh, Văn Kỳ Chương, Đặng Phú Ân, Lê Quang Dũng, đã vẽ lại đầy đủ chân dung và cuộc đời của giáo sư Phạm Biểu Tâm.
    Như mùi bánh Madeleine thơm phức đã đánh thức Marcel Proust “đi tìm lại thời gian đã mất”, tập san với những trang giấy trắng mới còn thơm mùi mực đã đánh thức những kỷ niệm trong tôi về thời gian đi học trường Y, những kỷ niệm với thầy cũ trường xưa đổ về như “để tưởng nhớ một mùi hương” ( Mai Thảo ) nhưng mùi thơm của tập sách đã gợi về hai mùi hương thời gian khác biệt, một mùi thơm của ngôi trường Y Nha Khoa mới, kiến trúc mới ở đường Hồng Bàng Chợ Lớn với mùi gạch mới, tường vôi mới, gỗ mới, khuôn viên mới, được xây lên năm 1962 do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, được giáo sư Phạm Biểu Tâm khánh thành cùng với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và một mùi “đặc biệt”của bệnh viện Bình Dân Sàigòn nằm trên đường Phan Thanh Giản gần góc đường Cao Thắng quận ba, do nhiều mùi khác nhau từ những khu bệnh giải phẫu, chỉnh trực, ung thư, ngoài da, tai mũi họng, mắt, răng hàm mặt, tiết niệu, quang tuyến hòa lẫn, bệnh viện với bác sĩ Phạm Biểu Tâm làm giám đốc năm 1954 sau ngày di cư, hậu thân của bệnh viện Phủ Doãn Hà Nội.
    Hình ảnh thầy Phạm Biểu Tâm luôn có mặt trong những bài viết của tôi về các thầy cũ, giáo sư Đào Đức Hoành,  GS Trần Ngọc Ninh, cùng những kỷ niệm về Bệnh Viện Bình Dân mặc dầu tôi không phải là học trò của thầy như các bạn cùng lớp với tôi, Phan Thượng Hải, Nguyễn Nho Đức, Nguyễn Quãng Đức, Soma Ganesan, Trần Đông Giang nội trú khu ngoại khoa tổng quát.
    Trong đời tôi có những cơ duyên với những người thầy đáng kính.  Tôi biết giáo sư Phạm Biểu Tâm và giáo sư Trần Quang Đệ trước khi tôi vào học y khoa năm 1968.  Hai người thầy, đại giáo sư phẫu thuật tổng quát của trường Y Khoa Sàigòn, là hai khác biệt.  GS Phạm Biểu Tâm sinh tại Huế, từ trường tiểu học Huế lên học trung học ở Vinh khi cha ông làm quan Bố Chính tỉnh Thanh Hóa, sáng lập “lò” giải phẫu Bình Dân, còn giáo sư Trần Quang Đệ người Nam, cựu viện trưởng viện đại học Sài Gòn, sáng lập “lò” giải phẫu Chợ Rẫy.  Bình Dân đa số gốc Bắc, Chợ Rẫy đa số gốc Nam.  Giáo sư Tâm nhỏ người ăn nói nhỏ nhẹ, giáo sư Đệ cao lớn ăn nói giọng oai vệ, khi tôi mới gặp, hai ông đều nói tiếng Tây, tôi chỉ nể mà không hiểu hai ông bác sĩ nói gì.  Năm tôi năm tuổi, trước khi đi học, cha tôi đem tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy để cắt ngón tay thừa bên cạnh ngón tay cái bàn tay phải, ngón tay vướng víu khi cầm viết.  Bạn của cha tôi là ông y tá Huệ, phụ tá số một của bác sĩ Trần Quang Đệ trong phòng mổ, (bác Huệ là  ba của Nguyễn Hoàng Tuấn bạn học y khoa cùng lớp với tôi) đã đem tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy.  Hồi năm tuổi tôi không biết là cậu nhỏ được vinh dự giải phẫu bởi đại giáo sư giải phẫu sau khi nằm ở bệnh viện Chợ Rẫy hai ngày.  Những năm học tiểu học, vào những ngày cuối tuần, tôi hay theo cha mẹ tôi đi dự hội Trung Việt Ái Hữu ở ngã ba Ông Tạ.  Cha tôi trong ban quản trị, giáo sư Phạm Biểu Tâm trong thành phần cố vấn của hội.  Tôi biết ông qua cặp mắt kính nể của cha tôi và các chú bác trong hội mặc dù ông kém cha tôi mười tuổi.  Ông là một hãnh diện của hội, một cựu học sinh trường Vinh, cha làm quan ở Thanh Hóa, là một dân chính gốc Thanh Nghệ Tĩnh!  Ông đã làm vẻ vang dân Trung vì đậu trường thuốc ở Hà Nội và đậu Thạc Sĩ Y Khoa ở Pháp năm 1948.  Ở những năm 1950, bác sĩ Y Khoa hiếm và được qúi trọng trong xã hội.  Bác sĩ Phạm Biểu Tâm , về sau khi tôi lớn lên mới hiểu hết, được các chú các bác bạn cha tôi trong hội qúi trọng là vì nhân cách của ông ngoài nghề y khoa.  Cứ mỗi năm, hội Trung Việt Ái Hữu tổ chức cây mùa Xuân và phát phần thưởng cho con em học giỏi.  Năm lớp nhất, tôi được sắp hàng trong đám học sinh trường tiểu học Phan Đình Phùng vào Dinh Độc Lập để nhận phần thưởng từ tay Tổng Thống Ngô Đình Diệm (mặc dù thất vọng, năm ấy Tổng Thống bận phải để Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ thay mặt) sau đó ngày chúa nhật ở hội Trung Việt Ái Hữu, tôi được nhận phần thưởng từ tay bác sĩ Phạm Biểu Tâm.  Giọng nói nhẹ nhàng từ con người nhỏ nhắn của bác sĩ Tâm ngày tôi mười một tuổi gây khiến tôi kính phục.
    Bảy năm sau tôi vào y khoa.  Năm 1968 Mậu Thân là một năm lịch sử.  Vào trường y khoa sau cái Tết biến động, thế hệ chúng tôi được xem là thế hệ y khoa do Hoa Kỳ đào tạo.  Giáo sư Phạm Biểu Tâm, người thầy y khoa nhiều thế hệ, đối với chúng tôi cao vời vợi và khoảng cách giữa thầy và chúng tôi như cha và con.  Năm 1968 đem đến nhiều thay đổi nhưng đối với người thầy của chúng tôi năm 1967 trước đó đã đánh dấu khúc quanh của cuộc đời người thầy tận tâm cho y học.  Sau khi đậu Thạc Sĩ Y Khoa Pháp năm 1948, ông dạy Y Khoa Đại Học Hà Nội từ 1949 đến 1954, đồng thời kiêm nhiệm Giám Đốc Bệnh Viện Yersin Hà Nội (nhà thương Phủ Doãn).  Vào Nam sau di cư ông vẫn tiếp tục được cử làm Khoa Trưởng Đại Học Y Dược và giám đốc Bệnh Viện Bình Dân.  Nhưng năm 1967, chính phủ “cách mạng” của chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm một cuộc đảo chính, lật đổ khoa trưởng Phạm Biểu Tâm, lập hội đồng khoa mới, lý do là các thầy theo hệ thống Pháp không chịu chuyển ngữ dạy tiếng Việt.  Thiếu tướng cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan theo lệnh ông Nguyễn Cao Kỳ làm cuộc đảo chính đưa quân vào trường trái với tinh thần tự trị của viện đại học.  Số phận của giáo sư y khoa Phạm Biểu Tâm may mắn hơn là số phận của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.  Bốn mươi bảy năm sau nhìn lại thì cuộc “cách mạng” của ông Kỳ là cuộc cách mạng có tính cách “biểu diễn”.  Tài liệu qua nhiều nhân vật trong tập san y sĩ kỳ này cho thấy các thầy thuộc thế hệ được đào tạo thời Pháp đang chuẩn bị một sự thay đổi từ từ như chấp nhận kỳ thi trắc nghiệm và giảng dậy bằng tiếng Việt.  Cách mạng của ông Kỳ cũng như cách mạng cộng sản của Hồ Chí Minh là một cuộc “chiến tranh vô ích”.  Những cuộc cách mạng đập phá ấy khác với tinh thần của bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ khi ông nói trước nhân viên bệnh viên Phủ Doãn sau khi cộng sản nắm chính quyền năm 1954: “Cách mạng có nghĩa là phải làm việc nhiều và tốt hơn nữa”.
    Sinh viên y khoa lớp chúng tôi chỉ bắt đầu gặp GS Pham Biểu Tâm vào năm thứ hai, sau năm dự bị và năm thứ nhất, khi được đi thực tập lâm sàng và được thầy giảng môn triệu chứng học trong giảng đường. Ông giản dị, từ tốn, giọng nhỏ nhẹ nhưng thâm thúy, người ông trông không có gì hấp dẫn khi mới tiếp xúc, người ốm, mặt gầy, tóc quăn (BS Nguyễn Chấn Hùng nói những người tóc quăn thông minh, đàn anh của tôi cũng tóc quăn!), dạy trong giảng đường chừng mực, cái vẻ thông thái của ông khác với vẻ thông thái của giáo sư Trần Ngọc Ninh.
    Ở bệnh viện Bình Dân, chúng tôi chỉ được gặp ông sau khi đi qua các giảng nghiệm viên khu giải phẫu tổng quát, bác sĩ Nguyễn Khắc Lân, BS Nguyễn Minh Tuyến, Tôi còn nhớ ông dạy lâm sàng, dặn dò phải “xem bệnh nhân như người nhà, nếu bệnh nhân lớn tuổi xem họ như cha mẹ”.  Ông đã dạy chúng tôi cách khám bệnh “nghe, sờ, gõ”, xin phép bệnh nhân được cởi áo trước khi khám bệnh. “Phút đầu gặp gỡ ấy” với bệnh nhân phòng 8 bệnh viện Bình Dân bên cạnh người thầy là những giây phút không quên trong đời.  Cách khám bệnh nhân ấy rất nhân bản.  Ông kính trọng bệnh nhân, thực hành những lời ông đã dặn học trò, và ông đã săn sóc bệnh nhân với tấm lòng nhân ái, có lẽ vì bản thân ông cũng đã là một bài học cho chính ông.  Năm 2000, giáo sư Nguyễn Khắc Minh có ghé nhà tôi ở Galveston, ông đã được mẹ vợ tôi, “chị Vân Anh” y tá trưởng phòng dụng cụ lâu đời ở bệnh viện Phủ Doãn và Bình Dân, kể lại câu chuyện thầy Phạm Biểu Tâm đau ruột dư để lâu ngày mới mổ, khi đánh thuốc mê áp huyết bị xuống thấp và gần ngưng thở phải được cấp cứu bằng phương pháp Sylvester.  Năm ngoái, sau bài viết về giáo sư Trần Ngọc Ninh, tôi qua California được thầy Ninh và sau đó cũng được BS Nghiêm Đạo Đại kể lại thầy Tâm đã khóc sau khi con thầy mất vì bệnh lao màng óc, một căn bệnh ngặt nghèo không chữa được bằng thuốc Steptomycin chích bởi tay giáo sư Ninh.
    Năm thứ nhất y khoa, tôi vào bệnh viện Bình Dân đi theo các anh nội trú Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Lương Truyền, Đặng Phú Ân, Nguyễn Văn Quang để học mổ và phụ mổ, sống và thức khuya để học như những con chuột cống trực gác trong nhà thương buổi tối.  Tôi đã chứng kiến những cái nhìn kính trọng của các anh nội trú với thầy, chưa được thấy thầy mổ nhưng bà mẹ vợ tương lai cũng đã khuyên tôi “nếu muốn theo nghành giải phẫu con nên theo thầy Tâm, ông mổ cẩn thận”.  Cách mổ của các học trò ruột của thầy vào lúc ấy như BS Nghiêm Đạo Đại (sau 1975 là giáo sư giải phẩu đại học Pittsburgh) BS Lê Quang Dũng, BS Nguyễn Khắc Lân, BS Nguyễn Minh Tuyến, BS Văn Kỳ Chương cho thấy đức tính cẩn thận của thầy đã truyền cho học trò.  Ông luôn luôn nhắc nhở các nội trú bệnh viện Bình Dân không nên ham mổ.  Năm 1975, tôi đã tận mắt nhìn thấy kinh nghiêm giảng dạy của thầy.  Một đêm tháng sáu năm 1975 tôi đưa cha tôi vào bệnh viện Bình Dân sau khi ông lên cơn đau bụng. Khoảng thời gian này là những năm tháng cuối của cha tôi.  Ông bị nhiều chứng bệnh nặng.  BS Phan Văn Tường hôm ấy trực đã khám cho cha tôi, định bệnh viêm ruột dư định đưa lên bàn mổ nhưng vẫn phải đợi thầy Tâm vào xem lại.  Mười giờ đêm thầy Tâm vào thăm bệnh cho cha tôi, sau khi khám lại kỹ lưỡng ông nói với tôi: “anh nên hội chẩn với Hồ Hội, tôi nghĩ ông cụ đau bụng vì bệnh nội thương”. BS Hồ Hội (trên tôi một năm) đã chuyển cha tôi về bệnh viện Chợ Quán để chữa bệnh gan.  Hình ảnh và giọng nói của thầy Phạm Biểu Tâm đứng cạnh cha tôi trên giường bệnh đúng 39 năm sau vẫn không phai mờ trong ký ức tôi.
    Năm thứ năm y khoa, tôi đậu kỳ thi nội trú các bệnh viện, về làm nội trú khu ung thư với giáo sư Đào Đức Hoành (đáng lẽ tôi phải chọn làm nội trú khu giải phẫu tổng quát trước khi làm nội trú khu ung thư mới đúng con đường giải phẫu).  Vì vậy cái duyên giữa tôi với thầy cũng chỉ là cái duyên “Kính nhi viễn chi” cho đến ngày ba mươi tháng tư năm 1975, cái ngày đổi đời của cả đất nước thì tôi mới có duyên gần gũi với thầy.
    Ngày 1 tháng 5, trước khi ủy ban quân quản tiếp thu bệnh viện Bình Dân, giáo sư Phạm Biểu Tâm tập hợp nội trú vá các bác sĩ điều trị, ông thay giáo sư Đào Đức Hoành giám đốc Bệnh viện đã di tản, bằng giọng nói nhỏ nhẹ ông kết luận bài nói chuyện ngắn bằng câu cay đắng: “ Nay cách mạng thành công, trong đây có anh đã đạt được mục đích, nếu thấy tôi có lỗi cứ lên đây tát tai tôi.” Tôi không hiểu ông muốn ám chỉ ai lúc đó, trong số bác sĩ và nhân viên bệnh viện không ai là cán bộ nằm vùng, về sau chỉ một số theo ngọn gió 30 tháng 4 đổi chiều quay lại đạp những giá trị cũ để tiến lên, hay là vì ông đã có nhiều kinh nghiệm trong đời ngay cả trước khi Việt cộng vào Sàigòn.  Năm 1967 ông bị đảo chính vì bị xem là thành phần thủ cựu thân Pháp nhưng cộng sản vào ông có thể bị kết tội thân Mỹ vì ông đã mời giáo sư Henry Bahnson đại học Pittsburg cộng tác chương trình hậu đại học phẫu khoa ở Bệnh viện Bình Dân từ năm 1972.  Ông đã phải đối đầu với sinh viên, những sinh viên quá khích, như năm 1972 sinh viên chống chương trình nội trú, đòi bỏ chế độ nội trú như Pháp để có một chương trình nội trú cho tất cả sinh viên như ở Hoa Kỳ.  Sinh viên Bùi Trọng Hậu (em ruột BS Bùi Mộng Hùng học trò giải phẫu của ông) đã bước lên sân khấu cầm micro chỉ mặt ông đang ngồi hàng đầu la mắng ông là người không biết cải thiện. Năm đó sinh viên chống thi nội trú một phần cũng vì chống giáo sư Khoa trưởng Đặng Văn Chiếu.  Ông đã điềm đạm cầm micro đáp lại anh Hậu “sở dĩ chưa có chương trình nội trú cho mọi người vì ngân khoản bộ y tế hạn hẹp chưa có thể thực hiện được “. Một lần khác, vào đêm thứ năm ở bệnh viên Bình Dân, đêm học hỏi với những trường hợp bệnh lý, bàn thảo giữa các sinh viên, giáo sư và giảng nghiệm viên.  Đêm hôm đó một lần nữa, ông lại bị nội trú nội khoa Nguyễn Xuân Ngãi, một sinh viên xuất sắc chuyên về nghành nội khoa cầm micro dạy cho GS giải phẫu nổi tiếng Phạm Biểu Tâm một bài học: “Thầy là người cổ lỗ sĩ, không học cái mới, thủng ruột vì sốt thương hàn bây giờ Mỹ không mổ chỉ cho trụ sinh và đặt ống hút”. Ông trả lời nhã nhặn “chúng tôi đã già nếu có gì mới các anh xin chỉ bảo”.  Đêm hôm ấy bạn tôi Soma Ganesan nổi nóng nói với tôi “mày chặn cửa sau, tao chặn cửa hông cho thằng Ngãi một bài học” chuyện đánh nhau không xảy ra nhưng tôi cố đọc sách và qua Mỹ cũng cố hỏi các bác sĩ giải phẫu mà không tìm ra câu trả lời chữa nội khoa cho bệnh thủng ruột do biến chứng bệnh sốt thương hàn.
    Tư cách của ông được học trò kính nể, ông là người có tinh thần dân chủ.  Một sáng ông đến bệnh viện, văn phòng ông nằm bên tay phải, phòng cấp cứu với phòng may vá khẩn cấp nằm bên tay trái, trước khi đến văn phòng ông đến xem sinh viên làm việc như thế nào.  Một sinh viên năm thứ hai thấy ông mặc áo trắng thắt cà vạt đã đuổi ông ra vì ông không mang mặt nạ và không đội mũ theo đúng luật của phòng tiểu giải phẩu.  Ông về văn phòng, sau đó trở lại với khẩu trang và mũ. Cậu sinh viên biết đại giáo sư đã lo sợ nhưng ông không la lối mắng mỏ, tôn trọng luật và tinh thần dân chủ của ông ít có giáo sư nào so sánh được.  Ông có tiếng thẳng thắn trong thập niên 1960 khi ông không nhận cô Ngô Đình Lệ Thủy  con ông cố vấn Ngô Đình Nhu vào trường Y Khoa vì không đủ điểm cũng như em ruột của ông học đến năm thứ tư vẫn bị đánh rớt, là khoa trưởng ông không can thiệp, em ông phải đi trợ y.
    Ông là người đã “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”.  Qua lời của GS Trần Ngọc Ninh, năm 1946, quân Pháp đột nhập bệnh viện Phủ Doãn cầm đầu là một viên Trung Úy cố tìm thủ phạm đã phá hủy thân thể một phụ nữ Pháp bằng thủ thuật, thủ phạm như vậy phải là một bác sĩ giải phẫu.  GS Phạm Biểu Tâm đã trả lời vững vàng điềm tĩmh đối thoại với viên Trung Úy như một người Pháp chính cống.  Triết lý sống cũng đã giúp ông qua thời kỳ BS Meynard (được ủy ban quân quản Pháp cử đến làm giám đốc bệnh viện Phủ Doãn) cho đến khi giáo sư Huard người thầy của ông đến.
    Sau 30 tháng tư, con người của giáo sư Phạm Biểu Tâm không đổi.  Riêng cá nhân tôi, tôi kính trọng hai vị thầy khả kính đã đứng thẳng người sau cơn bão mặc dù hai người với hai cá tính.  Giáo Sư Phạm Biểu Tâm thận trọng, biết nhiều chính trị nhưng không hoạt động chính trị, con người thâm trầm cân nhắc lời nói.  Giáo Sư Trần Ngọc Ninh phê bình thẳng thừng đôi khi châm chọc.  Cả hai ông đều đúng là trí thức, sống với chính mình.  Sau ba mươi tháng tư, bệnh viện Bình Dân giống như các bệnh viện khác, là sân khấu của những vở kịch khôi hài cười ra nước mắt.  Mỗi sáng các giáo sư thạc sĩ ngồi trong buổi giao ban được Y sĩ Năm Lực giảng dạy cách mổ.  Giám đốc Mười Nhâm tư cách hơn, chỉ lo thủ tục hành chính.  Các giáo sư được gọi là anh, mọi người được bình đẳng trên phương diện lao động, các thầy cũng giống như mọi người, đi xe đạp và lãnh nhu yếu phẩm, mỗi sáng bác sĩ chùi nhà chùi cầu tiêu dưới cặp mắt ái ngại của ông “chủ mới của chế độ” anh Được y công của bệnh viện.  Thầy Tâm đi chùi nhà, đổ rác mặc dù học trò nói thầy đừng làm, té bầm tay thầy than với chúng tôi “có hai lần đổi đời 54 và 75, hồi 54 tôi còn trẻ bây giờ tôi già rồi!”
    Tình trạng thay đổi khi giáo sư Tôn Thất Tùng vào Nam.  Các ông Năm Lực, Mười Nhâm được chỉ thị gọi các giáo sư bằng thầy.  Lãnh đạo miền Bắc thay đổi cũng nhờ việc tham quan của giáo sư giải phẫu Tôn Thất Tùng đàn anh của Gs Phạm Biểu Tâm và Trần Ngọc Ninh.  Giống như các nghành khác, giáo sư Tôn Thất Tùng được thần tượng hóa, thần thoại hóa qua phẫu thuật cắt gan như là đại giáo sư quốc tế sắp đoạt giải Nobel về y học.  Ngày GS Tùng đi thăm bệnh viện GS Tâm đã mời ông mổ cho nội trú học, GS Tùng đã trả lời ông không mổ vì đã xem “nội trú trong Nam mổ giỏi hơn ngoài Bắc”.  GS Tùng là người có tư cách khi trả lời GS Tâm như vậy.  GS T.N. Ninh đã viết GS Tôn Thất Tùng như là bác sĩ riêng của ông Hồ Chí Minh và huyền thoại ngoài Bắc vẫn nói BS T T Tùng ngồi cạnh ông Hồ Chí Minh khi ông Hồ mất nhưng năm 1994 qua Houston học, giáo sư nội khoa Đặng Văn Chung nói cho tôi biết ông chính là người săn sóc và ngồi cạnh ông Hồ Chí Minh khi ông này mất.)
    Năm 1976, học trò cũ của ông là BS Bùi Mộng Hùng từ Pháp cùng với vợ về VN đến thăm bệnh viện Bình Dân.  BS Bùi Mộng Hùng là chủ tịch hội y sĩ Việt Kiều Yêu Nước tại Pháp, vào lúc tranh tối tranh sáng không ai lúc ấy biết ông Hùng qua Pháp chỉ làm giải phẫu thực nghiệm không hành nghề giải phẫu.  Trong cảnh “hàng thần lơ láo” GS Tâm đã đón tiếp ông học trò rất nhã nhặn bằng giọng rất “thâm” của anh đồ Nghệ để hỏi thăm học trò về tình hình chính trị bên ngoài và trong nước.
    BS Trần Xuân Ninh đã có mặt trong buổi họp Hội Trí Thức Yêu Nước với sự có mặt của Tướng Võ Nguyên Giáp.  Những trí thức ba mươi tháng tư đã có bộ mặt sợ hãi nịnh bợ nhưng “uy vũ bất năng khuất”, giáo sư Phạm Biểu Tâm phát biểu đàng hoàng chừng mực, vắn tắt, nhẹ nhàng không ca tụng chế độ hay nịnh bợ.  Ông có tài nói chuyện thâm trầm đâm vào tim óc người nghe nhưng ông không dùng chữ hai nghĩa đôi lời nhiều ẩn dụ như những người đã sống lâu trong chế độ cộng sản.
    Giáo sư Trần Ngọc Ninh viết, sở dĩ giáo sư Phạm Biểu Tâm hành xử thẳng thắn (như lần ông qua bệnh viện Cộng Hòa cũ với bác sĩ Đặng Phú Ân mai mỉa chế độ ưu đãi cho cán bộ cao cấp trong khi ở bệnh viện Bình Dân hai bệnh nhân nằm chung giường) là vì có “tâm của y sĩ phẫu khoa”.  Tôi nhỏ hơn các thầy, nhìn lên, tôi thấy thầy là kết quả của hai nền giáo dục kim cổ, con người còn giữ tinh thần “kẻ sĩ” của tổ phụ, tinh thần nho giáo từ đời ông Tổ là Tổng Binh Phạm Tấn không thay đổI, dù ông theo Tây học, con người ấy thẳng thắn hơn nhờ tinh thầy Hướng Đạo.  Ông là cựu tráng sinh đoàn Lam Sơn Hà Nội với tráng trưởng Hoàng Đạo Thúy.  Trưởng Mai Liệu nay 96 tuổi, lớn tuổi không về dự trại Thẳng Tiến 10 toàn thế giới ở Houston năm nay, thường hay kể cho chúng tôi nghe về bác sĩ Phạm Biểu Tâm.  Tên ông có trong danh sách cố vấn hội Hướng Đạo Việt Nam trước 1975.  Trại toàn quốc lần chót ở Suối Tiên năm 1972 cũng có tên ông trong ban cố vấn.  Các bác sĩ trưởng Hướng Đạo như bác sĩ Trần Tiễn Huyến tổng ủy viên Hướng Đạo, Bác sĩ Trần Bình Chi đạo trưởng hải đoàn Bạch Đằng cũng thường nhắc đến trưởng Phạm Biểu Tâm trong những lần họp trại mặc dù tôi chưa được thấy ông mặc đồng phục Hướng Đạo lại trong những năm 1970.  BS Nguyễn Văn Thơ chủ tịch hội Hướng Đạo cũng như trưởng Nghiêm Văn Thạch (ở Pháp) nhắc đến ông 12 năm trước ngày trại Thẳng Tiến 7 tổ chức ở Houston.  Tôi cố tìm tên rừng của ông nhưng không ai nhớ.  Tráng sinh lên đường là người trưởng thành, buổi tối mang ba lô vào rừng đi cắm trại một mình, tay cầm cây gậy từ cành cây chĩa đôi, hai con đường đi một chính một tà, người tráng sinh tự chọn và tráng sinh Phạm Biểu Tâm đã chọn đúng con đường Baden Powell ông tổ phong trào Hướng Đạo vạch ra.  Người Hướng Đạo không làm chính trị, yêu nước với 3 lời hứa và giữ 10 điều luật.  Người Hướng Đạo có con đường tâm linh, không vô thần nên cho đến nay Hướng Đạo quốc doanh của CSVN không được phong trào thế giới công nhận.  Ngày trưởng Hướng Đạo Thúy, tác giả cuốn “Đội của tôi” cẩm nang cầm đội của các đội trưởng, theo ông Hồ Chí Minh làm giám đốc trường sĩ quan “Tông” triệu tập Đại hội Hướng Đạo Việt Nam tại Hà Nội để thành lập “Hướng Đạo cứu quốc” thuộc mặt trận Việt Minh, trưởng Võ Thành Minh (người thổi sáo bên bờ hồ Genève Thụy Sĩ ngày hiệp định Genève chia cắt đất nước) đã phản đối cùng với tráng sinh Phạm Biểu Tâm (Bạch Mã tráng khoá 5 tại Huế).  Tráng sinh Tâm đã tuyên bố: “ không phải gia nhập Cứu Quốc mới là yêu nước.  Hướng Đạo là người yêu nước từ lúc tuyên hứa”.
    Năm 1975, một lần nữa “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”, các cán bộ cộng sản biết tiếng tăm của giáo sư Phạm Biểu Tâm đã đưa ông vào đại biểu thành phố, hội trí thức yêu nước khiến mọi người hiểu lầm con người Thanh Nghệ Tĩnh ấy là người cộng sản.  Sự thật là tên tuổi ông được dùng vì người học trò cũ, bác sĩ Vân, cũng như Trưởng Khuê đạo trưởng Đạo Cửu Long (Gs Tâm là trưởng ban bảo trợ Tráng đoàn Bạch Đằng).  Các hội viện hội Trung Việt Ái Hữu cũng đóng phần vào việc đưa tên tuổi ông vào các tổ chức gọi là yêu nước của cộng sản, hội trưởng Nguyễn Khắc Quyến là người hoạt động cho cộng sản bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm bắt khi chở gạo qua vĩ tuyến 18 tiếp tế khi VNCH cấm vận.  Trong hội có những người Thanh Nghệ Tĩnh quốc gia như có bác sĩ Phạm Biểu Tâm, BS Phan Huy Quát, BS Phan Quang Đán nhưng một số khác hoạt động cho cộng sản.
    Bác sĩ Trần Xuân Ninh kể chuyện một lần “láo” với thầy Phạm Biểu Tâm khi bác sĩ Ninh xem thường khu “răng hàm mặt” làm tôi nhớ đến một lần cũng “ngổ ngáo” sau ngày 30 tháng tư 1975.  Giáo sư Đào Đức Hoành di tản, BS Trần Ngọc Quang giảng nghiệm viên đi Pháp, BS Nguyễn Quang Huấn và BS Nguyễn Chấn Hùng đi tù cải tạo. Giáo sư Phạm Biểu Tâm đứng ra trông coi khu ung thư với chị Nguyễn Thị Thanh Thảo nội trú trên tôi một lớp điều hợp công việc.  Một hôm trong phòng mổ tôi được sắp ca mổ tuyến giáp trạng với nội trú Nguyễn Tấn Lộc phụ mổ.  Sau khi mổ xong tôi tự khoác lác khoe tài “chỉ có khu ung thư mới mổ tuyến giáp trạng đẹp như vầy”, nói xong tôi thấy Lộc và bà Phòng đánh thuốc mê im lặng không lên tiếng phụ họa, phòng mổ không một tiếng động, Lộc nhìn sau lưng tôi, quay lưng lại tôi mới biết thầy Tâm đứng sau lưng tôi không nói xem tôi mổ từ đầu!  Ông im lặng không mắng tôi, không phê bình, quả thật là một người thầy đáng kính, mà có lẽ trong đời trên 30 năm dạy học ông cũng hiểu nội trú giải phẩu bệnh viện Bình Dân đa số ngông nghênh?
    Năm 1989, giáo sư Phạm Biểu Tâm qua Mỹ, tôi không gặp lại thầy từ ngày thầy định cư đến ngày ông mất 10 năm sau.  Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa  Kỳ năm ấy do bác sĩ Trương Ngọc Tích là chủ tịch đã đến thăm thầy với số tiền giúp thầy định cư nhưng thầy từ chối ngược lại thầy đã nhận số tiền nhỏ của tôi với bức thư trả lời của thầy gởi cho người học trò cũ.  Ông đã vui vẻ viết về những chuyện xưa khi trong thơ tôi nhắc lại “những người cùng quê Thanh Nghệ Tĩnh đã xem thầy là đại ân nhân của họ” vì thầy đã chữa bệnh không lấy tiền ở bệnh viện St Paul ngay cả những người phải giải phẫu. Thầy không làm phòng mạch tư nhưng làm việc thêm ở bệnh viện St Paul. Thời buổi khó khăn trong những năm chiến tranh ông cũng giống như các bác sĩ khác phải kiếm sống để đắp thêm tiền lương công chức nhưng ông đã luôn giữ tư cách không để công tư lẫn lộn.
    Năm 1995 tôi có dịp về thăm bệnh viện Bình Dân, ở phòng làm việc cũ của thầy nay là phòng làm việc của bác sĩ Văn Tần có treo hình thầy.  BS Văn Tần treo hình ngay ngày thầy đi qua Hoa Kỳ đoàn tụ trong khoảng thời gian mà cả nước chỉ được treo hình Hồ Chí Minh. Tôi không phục BS Văn Tần vì ông không chính gốc Bình Dân, về Bình Dân từ quân đội để học hậu đại học phẫu khoa, nhưng hành động của ông đã thay đổi tình cảm của tôi dành cho ông. Thái độ quân tử thẳng thắn của thầy đã truyền qua người học trò nối tiếp con đường giải phẫu ngoại khoa tổng quát bệnh viện Bình Dân và trường Y khoa Sàigòn.
    Năm ngoái, sau bài viết về giáo sư Trần Ngọc Ninh, tôi nhận được điện thư của một người đàn em đồng nghiệp, thế hệ đàn em y khoa sau 1975 BS Hồng Minh đã viết: “may mắn em vẫn còn được học một số thầy ở Bình Dân và trường y khoa Sàigòn.  Được hưởng tình thâm thầy trò huynh đệ của gia đình y khoa mình thật là hạnh phúc, trong em tấm lòng và hình ảnh yêu thương người bệnh và học trò của các thầy cô đã giữ lại trong suốt thời gian còn lại tuy em chỉ được học với số ít thầy trong thời gian dài nhưng chỉ bao nhiêu đó cũng hình thành tính cách chung của gia đình y khoa Sàigòn mà tận đến bây giờ em vẫn tự hào”. Tinh thần ấy của trường y khoa Sàigòn đã có nhờ công của các giáo sư thành lập trường từ năm 1954 trong đó công của giáo sư Phạm Biểu Tâm rất lớn.  Đời người ngắn ngủi, trăm năm chỉ còn lại một tấm lòng và học trò y  khoa qua bao thế hệ biển dâu vẫn không quên tấm lòng của người thầy giản dị khiêm nhượng Phạm Biểu Tâm.

Saigon Medical School (Dai Hoc Y Khoa Saigon)




The Saigon Medical School, Vietnam, before April 1975, with its main facility located on Hong Bang Street, Cholon, its teaching hospitals: Cho Ray, Binh Dan, Nhi Dong,.. and its professors: Pham Bieu Tam, Nguyen Huu, Tran Ngoc Ninh,Hoang Tien Bao, Dang Van Chieu, Nguyen Van Hong, Nguyen Ngoc Huy..
"The basic sciences complex of the Faculties of Medicine and Dentistry was located in the Cholon section of Saigon on a 15-acre tract of land. Construction was begun in the spring of 1963 and completed in the fall of 1966, at a total cost of $2,700,000 (U.S.), of which the U.S. and half by the Republic of Viet Nam paid approximately half. Original plans called for the construction of a teaching hospital on adjacent land, but those plans were not fulfilled.

The complex included four main buildings connected by a broad, two-story passageway. The two major structures, North Building and South Building, were four stories high. Between them were two smaller buildings, one containing the library and the cafeteria, the other a 450-seat auditorium. The North Building included the departments of gross anatomy, physiology and pharmacology, and animal surgery, and the animal vivarium, central administrative offices, and two 200-seat classrooms. The South Building included the departments of histology and embryology, pathology and biochemistry, and microbiology. On the ground floor were the Dental Outpatient Clinic and Dental Technical Laboratories and another 200-seat classroom. The South Building also included the administrative offices of the American Dental Association, AMA, and USAID.
The clinical instruction of medical students was carried out at eight different hospitals in the Saigon area. When the AMA project began, Cho Ray Hospital was probably the major teaching hospital, with full clerkships in internal medicine and general surgery. General surgery was also taught at Binh Dan Hospital, as well as urology, orthopedic surgery, ophthalmology, and dermatology. Pediatrics and pediatric surgery were taught at Nhi Dong Hospital. Obstetrics and gynecology were taught at Hung Vuong and Tu DU Hospitals. Nguyen Van Hoc Hospital was being constructed as general teaching hospital for clerkships in internal medicine, surgery, pediatrics, and obstetrics.

Only one hospital, Binh Dan, was under the control of the Ministry of Education and the medical school; all members of the professional staff were members of the faculty. All other hospitals were under the Ministry of Health and there was no relationship between staff membership and faculty appointment."
Saigon Medical School, An experiment In International Medical Education,(from: An Account of the American Medical Association's Medical Education Project in South Vietnam, 1966-1975
By C. H. William Ruhe, M.D., Norman Hoover, M.D. and Ira Singer, Ph. D.)

(American Medical Association ,1988)

A UNIQUE MEDICAL EDUCATION

Chat Van Dang
(Excerpt from The Mayflowers of 1975 book)
         Our class was the first to enter a brand new medical school built by the US Government for the people of Vietnam. Saigon Medical School in 1966 looked very much like the Stanford School of Medicine main building in 2005, at the time of this writing. We could purchase the latest American medical textbooks at a steep discount, and for the first time, we were able to experience a cafeteria-style menu, which was both inexpensive and quite upscale at the time for us. Even though I had been at affluent European campuses in Brussels and Paris, I felt a delighted excitement on the first day as I glided my tray along the line to get served by hostesses in fresh uniforms, a rare sight in our poor country.
         Our medical education was unique because our class was in the middle of major changes. All our Full Agrégé Professors were educated in the French system and lectured in French. The younger faculty who had been trained in the US taught basic sciences in Vietnamese mixed with English and French terminologies. The third group of teachers included volunteer or contracted American faculty from the US Armed Forces, private sector and academic institutions. Only recently, as I researched the full name of some of my teachers did I realize that the American Medical Association, under contract with USAID, was practically adopting the Saigon Faculty of Medicine following a strategic plan by Lawrence A. Pratt, MD. A report on the AMA Vietnam Medical Education Project was published by C. H. William Ruhe, MD, Norman W. Hoover, MD and Ira Singer, PhD in 1988.

Saigon Medical School, 2005

Stanford Medical School, 2005
        Please read the rest of the story in REMEMBERING SAIGON