Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2021

Nghĩ về trường Y Khoa Đại Học Sàigon: Còn gì để nhớ?

BS Trần Xuân Ninh

Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang nghe Giáo sư Pham-Bieu-Tam trình bầy. 

Trường đại học Y khoa Sàigòn đến 20 tuổi thì chấm dứt hoạt động, do biến cố 30 tháng 4/1975. Tính theo con số, thì ban giảng huấn đếm trên đầu ngón tay, đào tạo được chừng 2300 bác sĩ. Chẳng đáng là bao nhiêu, so với nhiều trường y khoa khác, về mặt y thuật, cũng như y nghiệp. Nhưng trường Y khoa đại học Sàigòn có nhiều điều đáng nói, nhiều điều để nói.

Tôi vào trường y khoa năm 1957. Ở biệt thự số 28 đường Trần Quý Cáp. Tòa nhà chính dùng làm văn phòng và thư viện.  Sân phía sau xây thêm hai giảng đường M1, M2, trang bị gồm một cái bảng mầu xanh lá cây sậm  chiếm gần hết bề ngang giảng đường, và hai hộp phấn trắng phấn mầu cho các giáo sư xử dụng với miếng bọt biển thấm ướt để xóa. Sinh viên thì mỗi người một cái ghế có tấm bảng nhỏ có thể dựng lên để kê tay viết và hạ xuống để ra khỏi ghế. Lại có cả máy chiếu các dương bản. Tôi không khỏi hãnh diện tự nhủ đại học y khoa có khác, so với trường trung học Chu  Văn An của tôi trong lớp chỉ có bảng đen nhỏ bằng non nửa tấm bảng xanh ở đây và vài cục phấn trắng với chiếc khăn lau bảng bụi mù. Điều làm tôi nể nhất trong buổi học cơ thể học đầu tiên với giáo sư Nguyễn Hữu là những hình vẽ thật đẹp, thật rõ ràng, cùng với bài giảng tiếng Pháp tuôn ra như nước chẩy, không có gì là khó hiểu đối với tôi là một học sinh trường Việt chính cống. Giáo sư Hữu có lối đùa cợt làm mọi người thích thú. Đặc biệt, ông đã làm tôi ngạc nhiên xúc động khi trong buổi học đầu tiên ông nói trường Y khoa là như một gia đình, người đi trước là anh dẫn giắt người đi sau là em học tập. Gọi nhau là anh em. Và ông hành xử như thế thực.  Tôi xúc động bởi vì khi còn ở trung học thì thầy giáo và học trò là thầy và con, khoảng cách là sự sợ sệt.  Trong một năm học PCB dự bị y khoa ở trường đại học khoa học thì giảng đường rộng lớn chứa cả mấy trăm người ngồi theo từng cấp từ cao xuống thấp. Đa số giáo sư vào bục giảng xa tít mù tắp, sinh viên ngồi trên xa nhìn không rõ mặt. Phần lớn lạnh lùng đọc bài giảng, lạnh lùng đi ra.

Tôi chưa bao giờ gần gạnh học hỏi với giáo sư Hữu, ngoài những giờ cơ thể học và một số giờ thực tập ít ỏi môn giải phẫu cơ thể (anatomie opératoire) để trong đúng vài nhát dao phải chinh xác đi vào tới mạch máu, khớp xương…Thực tập bệnh viện Bình Dân mà chưa từng bao giờ phụ mổ với ông.  Nhưng khi học xong giải phẫu tiểu nhi trên đường về nước qua Pháp, tôi viết thư xin phép được đến thăm giáo sư. Thì ông đã hẹn đến căn phòng nhỏ ông ở, gần ga xe điện ngầm Mouton-Duvernet Paris, ân cần nói đủ chuyện và giữ tôi lại, đích thân làm bữa trưa, cho tôi cùng ăn với ông! Tôi không nhớ ăn gì nhưng tôi nhớ là tôi rưng rưng cảm động.

Trái sang phải=Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Trịnh Văn Tuất, Gs Trần Vỹ, Gs Caubet, Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Huard, Gs Trần Đình Đệ, Gs Nguyễn Đình Cát, Gs Nguyễn Hữu,

Khi nói đến trường y khoa đại học Sài gòn, thì những người thuộc các lớp đầu tiên không ai không nghĩ ngay đến những tên tuổi nổi bật là Phạm biểu Tâm, Nguyễn Hữu, Trần Ngọc Ninh khu giải phẫu B bệnh viện Bình Dân và giáo sư Trần Quang Đệ, Đặng Văn Chiếu, Nguyễn phước Đại, Thái Minh Bạch khu giải phẫu A, bệnh viện Chợ Rẫy.

Giáo sư Phạm biểu Tâm nổi tiếng là một nhà mô phạm, đạo đức, ở trong và ngoài y giới. Tôi chỉ đứng phụ mổ giáo sư vài lần ở vị trí thứ hai sau nội trú nổi tiếng Bùi Mộng Hùng. Như thế không đủ khả năng nhận xét giáo sư về khía cạnh chuyên môn, cho nên tôi chỉ có thể nói rằng về mặt con người giáo sư Phạm biểu Tâm là một kẻ sĩ. Với cung cách ung dung, tự trọng. Trong một buổi họp trí thức chuyên gia ở Sàigon  cuối năm 1977 đầu 1978 gì đó, mà ban giám đốc bệnh viện Nhi đồng cử tôi đi và coi như là một vinh dự cho tôi vì có Võ Nguyên Giáp chủ tọa, giáo sư Phạm Biểu Tâm là một thuyết trình viên. Ông đã đọc bài tham luận về y khoa, rất chuyên môn, rất vừa phải, rất đúng thực, không có những xưng dương nịnh nọt ca tụng chế độ mọi mặt như những giáo sư, trí thức khác hôm đó.

Từ buổi đầu gặp gỡ, ấn tượng của tôi về Giáo sư Trần Quang Đệ là một ông Tây con: Người cao lớn trắng trẻo, giọng rổn rảng, lúc nào cũng nói tiếng Tây. Điều tôi nhớ nơi ông không phải là những bài bệnh lý giải phẫu đầy đủ, chi tiết, rành mạch như trong những sách luyện thi nội trú. Mà nhớ vào năm thứ nhất  trong đợt thực tập bệnh viện đầu tiên  ở khu giải phẫu A bệnh viện Chợ Rẫy, khi đi theo nghe ông trong những buổi khám bệnh, ông đã thuyết giảng rằng người bác  sĩ phải có originalité (tính độc đáo), personalité (tư cách), dignité (phẩm giá). Ông đã so sánh lòng thương của người áo trắng trước khổ nạn của bệnh nhân nó tiềm ẩn như sợi nước tĩnh lặng ở đáy giòng suối mùa đông đóng băng nhưng đến mùa xuân thì sợi nước đó làm tan băng để cuồn cuộn chảy ra sông ra biển. Những điều ông nói ra như vậy theo tôi nghĩ không phải chi có một lần, trước nhóm 6 sinh viên gồm 4 người năm thứ hai và hai người năm thứ nhất trong đó có tôi, mà là nhiều lần cho nhiều nhóm sinh viên. Nhưng có lẽ không mấy người nhớ. Vì tâm ý của đa số sinh viên là hướng về bệnh lý mà chú tâm. Còn tôi thì nhớ vì cuộc sống đã khiến đầu óc nghi ngờ soi mói, cho rằng đó chỉ là hình ảnh lý thuyết không có trong cuộc đời. Chính vì thế, mà khi đã định cư ở Hoa kỳ sau khi sống sót chuyến vượt biển tị nạn, tôi mới có được nỗi ngạc nhiên sung sướng thấy rằng giáo sư Trần Quang Đệ mà tôi nghĩ là một ông Tây con, đã xử sự trên cái nền dân tộc, theo tinh thần những điều ông nói ra mà tôi được nghe, cách đây hơn nửa thế kỷ: cung cách rất độc đáo, rất tư cách, có phẩm giá. Và tình cảm thâm trầm như sợi nước đáy con suối mùa đông. Tất cả đã biểu lộ qua những buổi tham dự với các sinh hoạt của các hội y sĩ tị nạn cũng như trò chuyện với một số bác sĩ bạn tôi.  

Giáo sư Đặng Văn Chiếu, ở khu giải phẫu A, và sau đó ở vị trí khoa trưởng đã luôn luôn từ tốn thanh thản một cách tự nhiên, khó thấy, ngay cả nơi những nhà tu. Bác sĩ Thái Minh Bạch trưởng khu giải phẫu tiểu nhi bệnh viện Chợ Rẫy lúc nào cũng tươi cười đầy vẻ dễ dãi của một sinh viên con nhà khá giả.

Hình ảnh đầu tiên còn lại trong tôi về bác sĩ Nguyễn phước Đại là một người đen đủi, mặc áo may ô đeo cái miếng plastic trắng ra ngoài chiếc quần dài kaki đứng rửa tay mổ, ăn nói ồn ào, làm tôi bụng nghĩ thầm không hiểu người y công nào mà lại nói tiếng tây như vậy. Nhưng chính ông là người chỉ trong hai tuần tôi đi qua khu tiết niệu thực tập đã dậy cho biết từng nguyên tắc, từng động tác của đủ các kỹ thuật  để thông, để nong đường tiểu với các loại dụng cụ mà lúc sang Mỹ thấy rằng nhiều bác sĩ Mỹ tiết niệu làm lóng nga lóng ngóng, nặng tay.

Giáo sư Trần đình Đệ tuy có người nói là tác phong quan cách, nhưng đã đưa ra được một số tiêu chuẩn rõ ràng để phát triển cho ngành sản phụ khoa và nữ hộ sinh “công chức” từ thời Tây để lại, mà bác sĩ Nguyễn Bích Tuyết là cột mốc để mọi người dòm chừng, không dám vượt qua cho tới khi VC vào chiếm nhà thương Từ Dũ.

Dù nhân số có thể đếm trên đầu ngón tay, và không thể điểm hết ở đây vì thời gian giới hạn, nhưng đứng về mặt y thuật mà xét, ban giảng huấn y khoa đại học Sàigòn có thể nói là đủ hay dư hiểu biết về chuyên khoa của mình để hướng dẫn sinh viên. Chỉ xin đơn cử một trường hợp. Thời tôi học y khoa, và trước khi có sự tham gia giúp đỡ của hội y sĩ Hoa kỳ (American Medical Association) vận động được sự hợp tác của nhiều trường Y khoa đại học Mỹ để đổi mới và cải thiện phương cách huấn luyện y học tại Việt nam, các chuyên khoa thường không được chú trọng và thu hút nhiều sinh viên theo học. Như Ngoài Da, Nhãn khoa, Tai Mũi Họng vân vân. Thực thế, không mấy ai thấy gì hấp dẫn khi ngồi sau các bác sĩ Tai Mũi Họng xem các bệnh nhân bị viêm xoang chẩy nước mũi kinh niên, hay thối tai chẩy mủ, hay ung thư sưng lệch một bên cổ. Cũng không mấy ai thấy khu Ngoài Da bệnh viện Bình Dân là có gì đáng học với những bệnh nhân bôi thuốc xanh thuốc đỏ triền miên, và ở những buổi khám bệnh ngoại chẩn là những bệnh nhân bệnh cùi, bệnh giời leo, bệnh tràng nhạc,  các bệnh sần, ngứa, sùi ngoài da chữa mãi không khỏi. Còn giáo sư Nguyễn Văn Út trưởng khoa thì có người xấu miệng đã bất kính xì xào bàn tán đối chiếu cái đầu mũi đỏ của ông với sự bất lực của chuyên khoa Ngoài Da. Một cách thành thực, cá nhân tôi không nhớ ông Út về điều này. Mà vì câu ông nói trong buổi dậy bệnh lý ngoài da đầu tiên  “La dermatologie, c’est la médecine générale” (Chuyên khoa Ngoài Da là chuyên khoa nội thương). Lúc đó, trong cái tâm trạng coi thường chuyên khoa Ngoài Da bất lực đối với vô số  bệnh ngoài da và sự thiếu hiểu biết về Y khoa, tôi đã nghĩ giáo sư Út nói thế vì mặc cảm, muốn đưa chuyên khoa Ngoài Da lên ngang hàng chuyên khoa Nội thương. Sau nhiều năm thực tập và hành nghề, học hỏi qua đủ ngành do thời thế đưa đẩy, mới hiểu rằng lời giáo sư Út phản ảnh sự hiểu biết sâu sắc về chuyên khoa của ông cũng như về tình trạng Y khoa nói chung  thời đó và ngay cả bây giờ.

Nhìn sang một góc cạnh khác, nếu không có cơ duyên mà biết được hay để ý tới các hoàn cảnh trưởng thành trước khi vào y khoa và những sinh hoạt ngoài trường Y khoa của các thành viên ban giảng huấn, thì không biết rằng ban giảng huấn không chỉ gồm những người thực hành y thuật, phát triển y nghiệp hay diễn giảng y khoa mà đã có nhiều người y sĩ dấn thân, nhưng không ồn ào trừ phi trong hoàn cảnh đặc biệt. Nói khác đi, không chỉ nằm trong khuôn khổ chuyên môn. Tôi chỉ xin kể một vài tên như Ngô Gia Hy, Đào Đức Hoành vân vân…

Hàng trước từ trái qua phải: các Giáo Sư Đào Đức Hoành, Giáo Sư Ngô Gia Hy (chánh chủ khảo với áo choàng đen), Giáo Sư Nguyễn Huy Can và Giáo Sư Đặng Văn Chiếu. 
Hàng sau từ trái qua phải: Các bác sĩ Lê Mỹ Phượng, Phạm Hữu Trác, Nguyễn Văn Lâm, Dương Hồng Huấn (áo choàng đen), Nguyễn Hoàng Hải và Trần Gia Khải.

*Có mặt ở đây hôm nay là một giáo sư lúc nào tôi cũng coi là người trẻ dù đã trở thành khoa trưởng – vị khoa trưởng cuối cùng của Y khoa đại học Sàigòn - là giáo sư Đào Hữu Anh,  mà  tinh thần gia đình đại học y khoa Sàigòn tôi đã có dịp thâm cảm. Tuy ở trong ban giảng huấn, nhưng tôi chưa từng nói chuyện với giáo sư Anh. Mà giáo sư Anh thì có lẽ chỉ nghe tên tôi chứ không biết mặt, vì tôi chỉ chúi ở bệnh viện Nhi đồng hay Bì nh Dân, chứ không lên văn phòng bởi không có việc gì. Một ngày thượng tuần tháng 4/1975, trong cái không khí bấp bênh lúc đó, tôi đã lên trường tìm gặp giáo sư khoa trường để xin một giấy chứng nhận tiếng Anh cái trách vụ của tôi lúc đó trong trường là giảng sư. Không hỏi tôi xin giấy chứng nhận làm gì, ông đã ngay lập tức cho đánh máy rồi ký đưa cho tôi. Nếu hỏi để làm thì có lẽ tôi cũng  khó trả lời, vì không biết chắc để làm gì*.

Giáo sư Trần ngọc Ninh, người cao tuổi nhất còn lại hiện nay của ban giảng huấn Y khoa đại học Sàigòn thuở ban đầu thành lập, mặc dầu người không khỏe, đang ngồi với chúng ta trong buổi họp mặt này là một trường hợp đặc biệt. Ông là mẫu người ưu tú, thông thái, sản phẩm của quan niệm giáo dục cổ điển Pháp. Ở cương vị giáo sư, ông là người tạo thách thức. Tìm tòi cái mới. Hiểu tinh yếu và áp dụng. Ông không dậy theo cung cách rành rọt, đầy đủ chi tiết như giáo sự Trần Quang Đệ, hay kiểu “phác đồ điều trị” lối VC cho những đầu óc giới hạn. Ông chú trọng đến tinh yếu của những vần đề trình bầy. Chắc các bạn còn nhớ những nguyên tắc vô thương, vô trùng, nguyên tắc sinh học, cơ học, nguyên lý lành mô tự nhiên vân vân mà ông nhắc đi nhắc lại trong các buổi đi khám bệnh. Ông kể chuyện Ambroise Paré nhà giải-phẫu-thợ-cạo Pháp thế kỷ thứ 16 bỏ cách chữa thương do đạn nổ theo lý thuyết cổ truyến là đổ dầu đun sôi vào vết thương để “giải độc” và “đốt cầm máu” (cautériser), cốt là để nói đến tinh thần quan  sát thực nghiệm và thách đố quy ước của Paré. Ông nhắc lời Paré nói “je le pansai Dieu le guérit : Tôi băng (cho bệnh nhân) Trời chữa (khỏi bệnh nhân), để cho thấy khả năng giới hạn của y khoa, và vai trò quan trọng của khả năng tự nhiên chống trả để lành bệnh của con người. Những người nặng niềm tin tôn giáo trong chuyện này sẽ nghĩ đến Trời, đến Chúa. Điều này không sao cả. Nhưng theo tôi nghĩ thì thời nay người ta đang tìm tòi nguyên do sinh bệnh và lành bệnh tự nhiên qua những nghiên cứu chưa đi được bao xa về tế bào, về sinh học phân tử (tuy những chuyện này đã được quảng cáo thổi phồng và khai thác thương mại).

Giáo sư Trần Ngọc Ninh và bác sĩ Đặng Phú Ân.

Giáo sư Ninh ý thức được vai trò của con người ưu tú - trong xã hội. Theo tôi, đó là lý do tại sao ông viết cuốn Nguyễn Du và Đoạn Trường Tân thanh, mà người đọc để ý suy nghĩ một chút sẽ thấy cái thân phận cay đắng của Nguyễn Du và nhiều trí thức khác thời Lê tàn, Trịnh mạt, Tây Sơn bột phát và Nguyễn sơ không khác bao nhiêu thời đại ngày nay. Biết cái phải cái hay nhưng không thể chọn đường nào cho đúng cho tròn. Phủi tay lánh đời vì biết mà làm không được như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp? Hay là như Ngô thì Nhậm dấn thân một thời để sau cùng cảm khái thốt ra “Thế Chiến quốc, thế Xuân thu. Gặp thời thế thế thời phải thế” trước khi bị hành tội ? Hay là như Nguyễn Du ẩn nhẫn qua ngày để vào cuối đời le lói, chỉ còn vui với cái xúc cảm mang mang một thời, khi gặp lại người đẹp xưa mặc nguyên chiếc áo hồng ngày cũ che mặt hát? Mà viết: “đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti” – ngó sen đứt rồi còn vương những sợi tơ, trong bài thơ Ngô đệ cựu ca cơ. Câu này đã biến thành “dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” trong Đoạn trường Tân thanh viết sau chuyến đi sứ Tầu trở về. Trong chuyến đi sứ, Nguyễn Du đã thăm được Phân kinh thạch đài dựng bởi thái tử Lương Chiêu Minh (thế kỷ thứ 6) khi Phật giáo được đẩy mạnh, để thấy rằng chỉ còn cái nền đá, và cây cỏ, không còn lấy một chữ. Do vậy thấm thía cái nguyên lý vô thường, tóm tắt bằng câu kết “Chung tri vô tự thị chân kinh” trong bài thơ tức cảnh Phân kinh thạch đài ( nghĩa là “Sau cùng thì biết rằng kinh chân thực là kinh không có chữ”)

Đến đây, chắc quý bạn cũng như tôi thấy tất cả các thành viên ban giảng huấn Y khoa đại học Sàigòn đều có những độc đáo. Độc đáo không chỉ trong kỹ thuật. Mà còn ở ngoài y thuật và y nghiệp.  Nhưng sinh viên thì ra sao, hay là cái độc đáo này được truyền tới sinh viên ra sao?

*Tôi muốn nói đến một nội trú đàn chị ở khu giải phẫu tiểu nhi bệnh viện Chợ Rẫy, bác sĩ Marguerite Trần (thường gọi là Margot). Bác sĩ Margot là con một bác sĩ giầu có danh tiếng ở Sàigon thời đó. Chỉ nói tiếng Tây giọng Tây (vì thế khởi đầu tôi không có cảm tình, cũng như là đối với giáo sư Trần Quang Đệ). Thấy tôi chăm chỉ lui cui theo chị đi khám bệnh và cái gì cũng hỏi (vì năm thứ nhất đi thực tập bệnh viện chẳng khác gì chim chích lạc vào rừng) chị đã cho tôi tập sách in ronéo luyện thi ngoại trú  của giáo sư Massias chị đã học, giữ rất kỹ và khuyến khích tôi học.  Để trả ơn, tôi đã chờ đến dịp tết mua tập thơ Mây và Say của Vũ Hoàng Chương, đem đến nhà tặng chị. Tôi đã chọn hai quyển thơ này như là một thách đố con người trường Tây. Điều tôi không chờ đợi là chị đã ngồi cùng với tôi bình luận những bài thơ Vũ hoàng Chương đến khuya!  Ra trường, liên lạc chỉ là vào những dịp ngày tư ngày tết. Sau 1975 là bặt tin. Mãi tới cách đây vài năm do cơ duyên gặp lại một bạn thân cùng lớp ra thăm hải ngoại mới hỏi chuyện bạn cũ y khoa Sàigòn và hỏi thăm chị. Khi chị hỏi tôi liệu có tính về thăm Việt Nam thì tôi đã nói không, vì hoàn cảnh không thuận tiện. Chị lại làm tôi ngạc nhiên khi vắn tắt trả lời với câu “thời lại phong tống Đằng Vương Các”, trong chuyện thư sinh 15 tuổi Vương Bột ở thật xa nhưng gặp thời được gió thổi kịp đến lầu Đằng Vương mà phóng bút làm bài phú Đằng Vương Các để đời, vượt xa các văn nhân thi sĩ đã tụ tập tại đó: Người lớn lên trong nền giáo dục Pháp, chỉ nói tiếng Tây, mà bình luận về thơ Vũ Hoàng Chương,  rồi lại biết lai lịch bài phú Đằng vương các của Vương Bột đời Sơ Đường!  Các quý vị có nghĩ là độc đáo không?  Nhưng Margot không phải là bác sĩ độc nhất như thế.  Chắc một số bạn có đọc những bài thơ trên mạng của bác sĩ Huỳnh Anh Shroeder  (dân trường Tây) dễ dàng diễn tả từ cây trái đến tình tự con người đất Việt.  Bác sĩ Anne Capdeville  hành nghề thần kinh tâm trí, vẽ thiên nhiên, mà cũng vẽ hình trang trí  cho một nhà thờ ở Pittsburg, nhưng lúc nhàn dư với bè bạn không quên kể chuyện Việt Nam xưa mẹ dậy con gái phải chừng mực đằm thắm, không dễ dãi buông thả vân vân…*.

Tôi cũng muốn kể một trường hợp cá nhân khác là bác sĩ Đỗ Như Hồng. Tôi không thường giao du tiếp xúc, ngoài một vài trao đổi trong các cuộc hội họp y sĩ. Nhưng  khi có một phụ nữ hoạt động tôi biết không có bảo hiểm y tế cần được khám sức khỏe và thử nghiệm máu, tôi từ xa liên lạc nói chuyện với bác sĩ Hồng nhờ giúp đỡ hy vọng được hưởng  giá tối thiểu. Thì bác sĩ Hồng đã tận tình giúp đỡ cho đương sự không tốn phí, cho luôn tiền thử máu*

Trong cái tâm thức chung của sinh viên, tôi còn nhớ sau biến cố 1 tháng 11/63, tại giảng đường M1, trong buổi trình bày vận động các sinh viên làm một tờ báo y khoa, đã có sự tham dự của đông đảo sinh viên mà đa số là từ năm thứ ba lúc đó trở lên. Sau khi thấy rằng đúng là cần có một tờ báo, nhiều tên đã được đưa ra, nhưng hai chữ Tình Thương đã được chấp nhận. Từ đó ra đời nguyệt san Tình thương liên tục nhiều năm, nhờ sự đóng góp bài vở, tình nguyện đi xin quảng cáo của các sinh viên dấn thân. Cho tới khi tình hình thay đổi, tâm thức con người thay đổi, dầu tinh thần gia đình y khoa vẫn còn. Thực thế, sau tháng tư 1975, tinh thần này biểu hiện ra cụ thể ở Canada qua bác sĩ Phạm Hữu Trác, với sự tích cực hỗ trợ của đàn anh Nguyễn Tấn Hồng người đã từng mấy lần làm bộ trưởng, sống và hành xử với quan niệm tương thân tương trợ, giúp nhau từng chai nước mắm, khuyến khích nhau học lại thi lại. Hội Y sĩ Canada đã ra đời trong hoàn cảnh như thế, với Tập san Y sĩ Canada đều đặn xuất hiện định kỳ, mà bền bỉ đóng góp từ tài chính tới nội dung là một số các anh chị em đã làm nguyệt san Tình Thương cũ cùng với nhiều anh chị em Y khoa Sàigòn khác ở khắp hải ngoại. Lai rai tiếp tục tới nay, tuy không tránh khỏi nét già nua. Nhưng mà đáng nói hơn cả, theo tôi, là hội Y sĩ Canada đã tổ chức được một đại hội  ở Montreal quy tụ đông đảo anh chị em bác sĩ đại học y khoa Sàigon tứ tán nhiều nơi trên thế giới, mà tôi nhớ là có giáo sư Trần Quang Đệ từ Pháp sang họp mặt. Để sau những bất đồng tranh cãi kéo dài, đã thành lập được hội Quốc tế Y sĩ Việt nam Tự do với lập trường không né tránh chính trị, có quan điểm chính trị rõ ràng không chấp nhận chế độ VC. Với sự kiện này, gia đình Y khoa đại học Sàigòn đã dấn thân hòa vào gia đình lớn là dân tộc, nghĩa là không chỉ cứu nhân độ thế bằng y khoa, mà trong các mặt cuộc sống, tuy rằng con người kỹ thuật và chú trọng với y nghiệp là đa số. Đây là một quan điểm rất mới so với các hội kỹ thuật hay ái hữu trong cộng đồng Việt nam hải ngoại, cho tới ngày nay.

Trường Y khoa đại học Sàgòn không còn nữa, do biến cố 30 tháng 4/1975 VC chiếm được miền Nam. Những đóng góp về mặt y thuật của các bác sĩ Y khoa Sàigòn không thể nhiều vì tổng số các bác sĩ không nhiều, nhưng không thua các bác sĩ khác. Trong các xã hội tư bản, coi các bác sĩ là các nhà cung cấp dịch vụ (provider), nhiều bác sĩ Y khoa đại học Sài gòn đủ khả năng khai dụng y thuật để làm chủ những y nghiệp giầu có.

Cái độc đáo của trường Y khoa đại học Sàigon như thoáng lược ở trên không chỉ ở từng người, sinh viên cũng như ban giảng huấn,  mà ở trong cái tâm thức gia đình, Gia Đình Y Khoa - không vì cảm tính bo bo mầu cờ sắc áo hay địa phương. Không chỉ  cứu nhân độ thế qua xử dụng thuốc và thuật, nhưng với Tình Thương rộng lớn san xẻ  chúng ta đã thấy qua lập trường thành lập hội Quốc Tế Y sĩ Việt Nam Tự do. Bởi vì trước khi là bác sĩ mỗi chúng ta đã và còn là người Việt Nam, trong nhãn quan toàn diện y khoa (holistic) của một con người thực-là-bác-sĩ. Trên cái nền chung này, tuy không gần mà vẫn thân, tuy xa mà vẫn không sơ. Xin tham lam mở ngoặc nói thêm một trường hợp điển hình là bác sĩ Vũ Thị Thoa ở Paris, tuy đã lớn tuổi và không liên lạc di chuyển nhiều, nhưng vẫn được các anh chị em Tập san Y sĩ Canada chị chị em em nhắc nhở trao đổi. Người nào có dịp sang Pháp thì ghé tới thăm.

bác sĩ Vũ Thị Thoa ở Paris

Mô tả vắn tắt, có thể tạm gọi là tinh thần Y Đạo. Mà mục đích tối hậu là giúp cho con người có bệnh cũng như không bệnh Thân Tâm An Lạc. Trong đó có mình.

Trần Xuân Ninh, Ngày 18 tháng 2/2018

Mưỡu hậu

Nội dung bài này đã được soạn để trình bày trong buổi họp mặt của các bác sĩ Y khoa đại học Sàigon ngày mồng 3 Tết Mậu Tuất tại Orange County California.  Vì thời gian giới hạn là 10 phút, một số đoạn (*…*)  và một vài câu lẻ nói về các chi tiết đã phải bỏ tại chỗ, nhưng vẫn qúa giờ,  vì nói thuận miệng mà không đọc theo bài, và ban tổ chức thông cảm, không cắt micro. Có lẽ vì giáo sư Đào hữu Anh mở đầu đã nói rất ngắn, và cũng có lẽ vì một vị khác dự tính là phát biểu nhưng đã không nói cho nên toàn bộ phần phát biểu không quá thời gian ấn định. Tại chỗ, sau khi chấm dứt, người trình bày đã cảm ơn  ban tổ chức cho sống lại những giây phút thách đố hứng thú khi vào thi vấn đáp nội trú cách đây nửa thế kỷ, phải làm sao gói tròn những điều hội đồng chấm thi muốn nghe  trong thời gian vài phút phù du, tránh cảnh  các giám khảo bỏ bút xuống, nhổ râu cằm.

Cuối buổi họp mặt, một vài anh chị em trong ban tổ chức đã yêu cầu gửi cho bài viết để phổ biến. Cho nên mới có bài này hoàn chỉnh với những hình ảnh bè bạn trong đó có bác sĩ Đặng phú Ân cung cấp mà không thể chiếu lên trong buổi họp mặt, vì không có giờ.

Sau chót, trong hình giáo sư Trần Quang Đệ chụp cùng môn sinh bệnh viện Chợ Rấy quý vị nào nhận ra tên các sinh viên đứng ở hàng sau xin cho người viết biết. Kính cám ơn.

Sau chót, trong hình giáo sư Trần Quang Đệ chụp cùng môn sinh bệnh viện Chợ Rấy quý vị nào nhận ra tên các sinh viên đứng ở hàng sau xin cho người viết biết. Kính cám ơn.

TXN

Trường thuốc Sài Gòn ngày tháng cũ

 

Lê Văn Nghĩa
Đi ngang góc đường Võ Văn Tần - Lê Quý Đôn (TP.HCM) ai cũng biết số nhà 28 Võ Văn Tần là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, nhưng ít người rõ nơi này ngày xưa là chùa Khải Tường, được lập theo lệnh vua Minh Mạng để ghi dấu tích nơi ngài chào đời và sau đó là Trường thuốc Sài Gòn.
Trường Y khoa Đại học Sài Gòn trên đường Hồng Bàng trước năm 1975 /// Ảnh: T.L
Trường Y khoa Đại học Sài Gòn trên đường Hồng Bàng trước năm 1975
ẢNH: T.L
Nơi tập hợp những giáo sư cự phách
Người Pháp đã chiếm ngôi chùa để lập đồn lính. Đến tháng 12.1860 viên đại úy Barbet, chỉ huy trú đóng, bị nghĩa quân phục kích giết chết. Khoảng năm 1947 thì số nhà 28 này tấp nập sinh viên (SV) trường thuốc. Trường thuốc ngày xưa mang tên Y Dược hỗn hợp Đại học đường (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie) được thành lập sau Hiệp định Genève. Trước năm 1947, đây là chi nhánh của Trường Y khoa Đông Dương thuộc Viện Đại học Đông Dương đặt ở Hà Nội.
Trường thuốc y dược hỗn hợp này ít được biết đến vì chẳng có ngôi trường to đùng như bây giờ. Trường thuốc ngày ấy được đặt trong một tòa nhà cũ kỹ, trước kia là nhà của một bà bác sĩ, lùi mình vào giữa một sân rộng với rào cây xanh tươi, mang số 28 ở góc đường Testard - Barbet một vùng yên tĩnh, ít ai qua lại. Vì trường đặt trong một ngôi biệt thự, chẳng cải tạo lại nên giảng đường là những phòng nhỏ bé, chật hẹp.
Trường thuốc Sài Gòn ngày tháng cũ - ảnh 1
Y khoa Đại học đường tại số 28 đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần
ẢNH: T.L
Bài phóng sự Trường thuốc Sài Gòn của báo Đời Mới (năm 1959) cho biết: “Chỉ có ba gian ở tầng lầu trên dùng cho cả hai trường y dược nên nhiều khi không đủ, SV phải đi học nhờ ở những nơi khác như Viện Pasteur, ở phòng thí nghiệm vật lý học đường hay ở ngay nhà xác Chợ Rẫy khi học giải phẫu. Tại trường, lớp học chỉ vừa đủ để chứa một ít SV nên mỗi năm vô thêm người là cả vấn đề. Lúc sơ khai, nhà trường đóng những bàn nhỏ vừa cho hai người ngồi. Gặp phải “nạn nhân mãn”, ông viện trưởng nghĩ ra một diệu kế là cưa ngay mặt bàn làm hai theo chiều dài để tăng số bàn gấp đôi...”. Các “ông thầy” Nguyễn Chấn Hùng, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Đông A, Ngô Thế Vinh, Trương Thìn.... thuở SV chắc đã từng ngồi trên những cái bàn này?
Dù nhỏ và chật hẹp như vậy nhưng vào đầu năm 1960, Trường Y Dược hỗn hợp có một dàn giáo sư (GS) cự phách. Được biết đến là GS Khoa trưởng Phạm Biểu Tâm, Phụ tá khoa trưởng là GS Ngô Gia Hy và 83 GS - bác sĩ (BS) Việt lẫn nước ngoài như GS Trần Quang Đệ, GS Nguyễn Đình Cát, GS Trần Ngọc Ninh, GS Nguyễn Ngọc Huy, BS giảng sư Trần Lữ Y, Bùi Duy Tâm, Nguyễn Phước Đại... Khoảng đầu thập niên 1960, Trường Y Dược hỗn hợp tách ra và đổi tên thành Y khoa Đại học đường.
Thời nào cũng vậy, mộng ước của cha mẹ của các cô gái là kiếm được chàng rể “BS, kỹ sư” cho nở mày nở mặt với thiên hạ. Tôi thì không dám mơ trở thành BS vì chỉ ham chuyện văn chương còn những thằng bạn tôi, khi còn học trung học đã mơ đời BS nên từ khi lên lớp đệ tam (lớp 10) đã chọn ban A để dễ dàng thi lấy chứng chỉ SPCN (Sciences Physiques, Chimiques et Naturelles) hoặc chứng chỉ sinh lý - sinh hóa. Khi có chứng chỉ này được xem như vào lớp dự bị y khoa. SV phải vượt qua kỳ thi tuyển vì sĩ số có hạn. Niên khóa 1971 - 1972, 952 thí sinh dự thi nhưng chỉ có 203 người vượt vũ môn (trong đó 65 nữ SV). Sau 6 năm học tập và thực tập tại các bệnh viện (chưa kể năm dự bị), SV được xem là y sĩ và có thể hành nghề tại các bệnh viện. Nhưng nếu muốn có được bằng BS y khoa, y sĩ phải trình một luận án trước một hội đồng gồm 5 thành viên. Bằng BS y khoa do trường y khoa cấp được xem là tương đương với văn bằng y khoa nước ngoài.
Trường thuốc Sài Gòn ngày tháng cũ - ảnh 2
GS Phạm Biểu Tâm nói chuyện với SV tại tòa nhà số 28 đường Testard, sau đổi lại là Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần)
ẢNH: LIFE
Ngôi trường mới của thầy thuốc
Ngày 9.5.1963 là ngày đặt viên đá đầu tiên xây dựng trung tâm giáo dục y khoa (TTGDYK) tại đường Hồng Bàng (Chợ Lớn), nay là Đại học Y Dược TP.HCM, với thiết kế của công ty kiến trúc Mỹ Smith, Hinchman&Grylls và đoàn kiến trúc sư VN do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ hướng dẫn. Bắt đầu từ năm 1961, hai bên đã cộng tác để thiết lập đồ án kiến trúc nói trên. Khoảng tháng 6.1962, hai bên đã hoàn thành đồ án xây cất TTGDYK với đầy đủ các chi tiết. Trường có nhiều phòng thí nghiệm, những giảng đường với 200 chỗ ngồi, một đại thính đường với 450 chỗ ngồi, một thư viện 200 chỗ ngồi, một quán cà phê và một bệnh viện y khoa. Với cơ sở lớn như vậy, hằng năm có độ 200 BS y khoa và 50 nha sĩ tốt nghiệp.
Sau ba năm xây dựng, ngày 16.11.1966, chính quyền Sài Gòn đã làm lễ khánh thành TTGDYK với kinh phí xây dựng là 150 triệu đồng. GS Phạm Biểu Tâm đã đọc một bài diễn văn khai mạc trong đó có đoạn đáng chú ý: “Trung tâm này sẽ xứng danh là một TTGDYK vào bậc nhất nhì vùng Đông Nam Á”.
Sau này, trường được gọi là Y khoa Đại học đường Sài Gòn trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Trong gần 10 năm cộng tác giữa hai phía, trường đã hợp tác chặt chẽ với 20 bộ môn của 19 trường y tại Mỹ. Ngoài việc 140 giảng viên VN được huấn luyện tại Mỹ từ 6 tháng đến 6 năm, phía Mỹ đã gửi đến VN lượng sách, báo đồ sộ cho thư viện và một lực lượng ban giảng huấn hùng hậu với 171 giảng viên, trong đó 22 chủ nhiệm bộ môn, 37 giảng viên hợp tác dài hạn, 112 hợp tác ngắn hạn, với những tên tuổi lớn của y khoa Mỹ lúc bấy giờ. Từ ngôi trường y khoa này, xuất hiện một loạt BS tài ba, những GS - tiến sĩ y khoa đầu ngành nổi tiếng tại VN hiện tại. Nhiều thế hệ BS kế tục, đã và đang được đào tạo bởi các GS-BS thi đậu vào TTGDYK năm đầu tiên.
Năm 1976, các trường Y khoa Đại học đường Sài Gòn, Dược khoa Đại học đường Sài Gòn, Nha khoa Đại học đường Sài Gòn và Trường Đào tạo cán bộ y tế miền Nam hợp nhất thành Trường đại học Y Dược TP.HCM trực thuộc sự quản lý của Bộ Y tế.
Từ năm 1947 đến nay, 70 năm qua, Trường đại học Y Dược TP.HCM ngày càng phát triển, cũng nên nhớ lại địa chỉ 28 Võ Văn Tần - nơi xưa kia đã có một trường đào tạo những sinh viên trường thuốc “sẽ săn sóc miễn phí cho người nghèo và không bao giờ đòi hỏi một thù lao quá đáng so với công việc làm” (trích lời thề Hippocrates do BS Nguyễn Đình Cát dịch).

Giai đoạn Y Khoa Đại Học Đường Sài Gòn (1946 – 1975)

 KHOA Y

 
Khoa Y Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tiền thân trước năm 1976 là Y Khoa Đại Học Đường Saigon, là một trong những khoa được thành lập đầu tiên của Trường, từ năm 1947.
 
Hiện nay, trong xu thế phát triển chung, với khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng và rộng khắp trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế... đòi hỏi Khoa Y phải tăng tốc, đón đầu để phát triển một cách bền vững.
 
Là một cơ sở đào tạo trọng điểm của khu vực phía nam, Khoa Y có sứ mạng chuyển giao kiến thức và đào tạo nhân lực y tế nhằm phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển các khoa học sức khoẻ góp phần nâng cao trình độ của nền y học nước nhà.
 
Quá trình hình thành và phát triển của Khoa Y gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Từ khi thành lập đến nay, Khoa đã đào tạo và cung cấp cho đất nước hàng vạn bác sĩ, thạc sĩ, bác sĩ CK I, bác sĩ CKII, tiến sĩ..., đã thực hiện hàng loạt công trình nghiên cứu khoa học, ứng dụng trong phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị các loại dịch bệnh, chế tạo ra các chế phẩm y-sinh.
 
Khoa Y ngày nay là một cơ sở đào tạo trọng điểm của khu vực phía nam, có sứ mạng chuyển giao kiến thức và đào tạo nhân lực y tế nhằm phục vụ sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển các khoa học sức khoẻ góp phần nâng cao trình độ của nền y học nước nhà. Có ba giai đoạn chính từ lúc hình thành, phát triển cho đến nay: giai đoạn trước 1975, giai đoạn từ 1975 đến nay.
 
GIAI ĐOẠN Y KHOA ĐẠI HỌC ĐƯỜNG SÀI GÒN (1946 – 1975)
 
1.1. Cơ sở vật chất:
 
Đại học Y khoa đầu tiên ở Việt Nam là Khoa Y Dược Đông Dương (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie) thuộc Viện Đại học Đông Dương (Université de l’Indochine) đặt ở Hà Nội.
 
Năm 1946 người Pháp mở thêm một chi nhánh ở Sài Gòn với tên Khoa Y Dược Hà Nội, chi nhánh Saigon (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie de Hanoi, Section de Saigon).
 
Sau Hiệp định Genève 1954, cơ sở và nhân sự được dời từ Hà Nội vào Sài Gòn dưới tên mới: Khoa Y Dược, Viện Đại Học Saigon (Faculté mixte de Médecine et de Pharmacie, Université de Saigon). Trụ sở của trường là số 28 đường Testard gần góc với đường Barbé (sau 1955 đổi là Trần Quý Cáp và Lê Quý Đôn). Nguyên đó là đất cũ của ngôi chùa Khải Tường lịch sử. Trên nền chùa lúc ấy là biệt thự của gia đình BS. Henriette Bùi. Henriette Bùi là nữ Bác Sĩ đầu tiên của Việt Nam. Bà mở Dưỡng Đường Sản Phụ Khoa tại biệt thự này từ 1940. Gia đình bà đã hiến tặng biệt thự này để làm trụ sở cho nhà trường. Trường là một biệt thự hai tầng: tầng trên làm văn phòng Khoa Trưởng, phòng Hội Đồng Giáo Sư và cũng là nơi các sinh viên trình luận án - tầng dưới dành cho văn phòng hành chánh, phòng hội và thư viện - đằng sau là khu vườn trống, mấy năm sau xây thêm giảng đường. Hai giảng đường lớn được xây hai bên và 4 giảng đường nhỏ ở giữa xếp theo hình chữ U. [1]
 
Tòa nhà 28 Trần Quý Cáp
 
 
BS. Henriette Bùi
 
 
 
Ngoài bệnh viện Chợ Rẫy, được xây dựng vào năm 1900, cùng với Viện Pasteur Saigon (thành lập vào năm 1891), là các cơ sở thực tập y khoa có sẵn từ trước, bệnh viện Bình Dân được thành lập vào năm 1954 để bổ sung vào các cơ sở thực tập.
 
Bệnh viện Bình Dân
 
 
Bệnh viện Chợ Rẫy
 
 
 
Năm 1956, Bệnh viện Nhi đồng trên đường Sư Vạn Hạnh bắt đầu hoạt động; đó là cơ sở y tế đầu tiên dành riêng cho bệnh nhi.
 
 
 
Cũng trong năm 1956, Cơ Thể Học Viện được thành lập ở đường Trần Hoàng Quân (nay là đường Nguyễn Chí Thanh), cạnh Bệnh viện Hồng Bàng (nay là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch).
 
 
 
 
 
Một bệnh viện mới, Bệnh viện Nguyễn văn Học được xây dựng ở Gia Định năm 1967.  Với số giường trên dưới 600, đây là bệnh viện lớn thứ nhì sau bệnh viện Chợ Rẫy (1200 giường). Cũng như các bệnh viện thực tập khác, bệnh viện Nguyễn Văn Học, cũng còn có tên là Trung Tâm Thực tập Y khoa Gia Định, trực thuộc bộ Y tế lúc bấy giờ, nhưng công việc giảng dạy do các nhân viên giảng huấn của Y Khoa Đại Học Đường Saigon đảm nhiệm, gồm các bộ môn Nội, Ngoại khoa, Nhi khoa và Sản Phụ khoa. [2]
  
Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
 
 
 
Tháng 8.1961: Dược khoa tách ra và dọn về trụ sở 169 Công Lý, từ 1964 chuyển về 41, đường Cường Để (nay là đường Đinh Tiên Hoàng).
 
Năm 1963: Nha khoa tách ra và dọn về trụ sở 652 Nguyễn Trãi. Cũng vào những năm này các giáo sư người Pháp lần lượt giải nhiệm và ban giảng huấn chuyển qua tay người Việt. Năm 1962 là năm cuối cùng bằng Bác sĩ Y khoa của Viện Đại học Sài Gòn được công nhận tại Pháp.
 
Năm 1966: Y Khoa và Nha Khoa dọn đến Trung tâm Giáo dục Y khoa, địa điểm mới vừa xây dựng xong ở số 217 đường Hồng Bàng, quận 5. Kinh phí xây dựng lúc bấy giờ là 4 triệu rưỡi Mỹ kim, 50% do cơ quan USAID Hoa Kỳ tài trợ với sự trợ lực của Hiệp Hội Y khoa Hoa Kỳ (American Medical Association, AMA),  50% góp từ ngân sách quốc gia Việt Nam Cộng hòa. Cơ sở mới được một nhóm kiến trúc sư Mỹ - Việt thiết kế, trong đó Công ty CRS (Houston) là trưởng nhóm Hoa Kỳ, và Văn phòng tư vấn kiến trúc của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là trưởng nhóm Việt Nam. Sau khi xây dựng xong, nhóm kiến trúc sư Mỹ Việt đang tiến hành thiết kế bệnh viện Y khoa thực hành cho trường Y tại một khu đất bên trái (có sân bay trực thăng) nhưng phải ngưng (khu đất này ngày nay có Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh).
 
 
 
 
 
 
 
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
 
 
 
Tính đến 1975, Y Khoa Đại Học Đường Saigon là một trong số 8 Trường (Kiến Trúc, Khoa Học, Luật Khoa, Sư Phạm, Văn Khoa, Y Khoa, Dược Khoa, Nha Khoa) trực thuộc Viện Đại Học Saigon. [3]
 
Lý thuyết và thực tập các môn khoa học cơ bản được triển khai tại nhiều nơi như [2]:
 
 Môn Vi trùng và Ký sinh trùng học: Viện Pasteur Saigon
 Môn Sinh hoá học: phòng thí nghiệm Bệnh viện Đô Thành (nay là Bệnh viện Sài Gòn)
 Môn Mô học và Cơ thể bệnh học (nay gọi là Giải phẫu bệnh học): quân y viện Coste (của quân đội Pháp ở gần Thảo Cầm viên, nay là trường nữ trung học Trưng Vương)
 Môn Cơ thể học (nay gọi là Giải phẫu học): Bệnh viện Chợ Rẫy.
 
Các bệnh viện thực tập gồm: 
 
 Bệnh viện Grall (là bệnh viện đa khoa của người Pháp trước 1975, sau này là Bệnh viện Nhi đồng 2): ban đầu sử dụng tối đa lúc về cơ sở, phòng ốc và giảng viên, những năm sau giảm dần.
 Bệnh viện Chợ Rẫy: cho các môn Nội, Ngoại, Tai Mũi Họng, Mắt.
 Bệnh viện Đô Thành (nay là Bệnh viện Sài Gòn): cho các môn Nội, Ngoại, Cấp Cứu, Tai Mũi họng.
 Bệnh viện Chợ Quán (nay là Bệnh viện Bệnh nhệt đới và Bệnh viện Tâm thần): cho môn bệnh truyền nhiễm và bệnh tâm thần.
 Bảo sanh viện Từ Dũ (nay là Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ).
 Viện Bài trừ Hoa liễu (nay là Bệnh viện Da Liễu).
 
Thư viện và báo chí
 
Y khoa Đại học Đường Sài Gòn là nơi lưu trữ nhiều sách báo chuyên môn. Vào thời điểm 1970 thư viện của trường có 7.302 đầu sách tiếng Anh, 4.547 sách tiếng Pháp cùng một số sách tiếng Việt. [4]
 
Ngoài công việc giảng dạy, các nhân viên giảng huấn còn tích cực tham gia khảo cứu. Rất nhiều bài báo cáo khoa học đã được đăng trên các báo y khoa quốc nội và quốc ngoại, những bài này đã được liệt kê trong hai quyển sách Travaux de Recherche Scientifique I và II của GS Nguyễn Hữu và BS Nguyễn Đức Nguyên. Ngoài ra còn có là quyển sách Bibliographie des Thèses của GS Nguyễn Đức Nguyên, trong đó ghi lại đầy đủ tất cả các luận án đệ trình tại hai trường y khoa Saigon và Hà nội từ khi thành lập tới năm 1972. Từ năm 1957 đến 1975, trường cũng chủ biên một tạp chí y khoa là Acta Medica Vietnamica, xuất bản mỗi 3 tháng một lần, tổng biên tập là GS Phạm Biểu Tâm.
 
1.2. Cơ cấu tổ chức:
 
 1946-1950: Daléas. Khoa trưởng của Faculté Mixte de Médecine et de Pharmacie thời bấy giờ là GS. P. Huard, Giáo Sư Daléas làm Phó khoa trưởng kiêm phụ trách Y Khoa nên cũng có thể xem là vị khoa trưởng đầu tiên của trường.
 
 1950-1955: Charles Massias. Sau một vài năm, các Giáo sư Pháp bắt đầu rời khỏi ban giảng huấn. Khởi đầu là việc GS. Massias từ nhiệm, và GS. Phạm Biểu Tâm lên thay thế năm 1955. GS. Phạm Biểu Tâm là vị Khoa Trưởng Việt Nam đầu tiên của Y Khoa đại học ĐườngSaigon.
 
 1955-1967: Phạm Biểu Tâm (Ngày 30.01.1967, GS. Phạm Biểu Tâm từ chức Khoa trưởng và được thay thế bằng một Hội Đồng Khoa Trưởng gồm 5 giáo sư Ngô Gia Hy, Nguyễn Ngọc Huy, Trần Anh, Lê Minh Trí và Nguyễn Thế Minh.
 
 1967-1969: Ngô Gia Hy. Đến tháng 5.1967 GS. Ngô Gia Hy được bầu lên làm Khoa trưởng nhưng đến tháng 7 thì Giáo sư được cử vào làm Thượng Hội Đồng Quốc Gia nên giao toàn quyền Khoa trưởng cho GS. Vũ Thị Thoa.
 
 1969-1970: Phạm Tấn Tước
 1970-1971: Đào Hữu Anh
 1971-1974: Đặng Văn Chiếu
 1974-1975: Vũ Quí Đài
 Từ 1969 đến 1975 các Khoa Trưởng đều được cán bộ giảng bầu lên.
 
Giáo sư Charles Massias
 
 
Giáo sư Phạm Biểu Tâm
 
 
Giáo sư Ngô Gia Hy
 
Giáo sư Vũ Thị Thoa
 
 
Giáo sư Đào Hữu Anh
 
Giáo sư Đặng Văn Chiếu
 
Giáo sư Vũ Quí Đài
 
 
 
Về đội ngũ giảng viên, Giáo sư của trường lúc ban đầu chỉ có 2 người, nên nhà trường đã dùng khả năng giảng huấn của các bác sĩ Quân y Pháp và các bác sĩ Việt Nam ở Saigon, niên khóa 1948-1949 có tới 10 Giáo Sư trong đó có GS. Massias (Nội Khoa) ở Hà Nội vào và GS. Trần Quang Đệ (Ngoại Khoa) từ Pháp về.
 
Từ 1960-1963, đội ngũ Giáo Sư nhanh chóng được bổ sung bằng các thầy tốt nghiệp Thạc Sĩ (Agrégé) từ Pháp:  GS Ngô Gia Hy (Niệu khoa), GS Trần Anh (Nhân chủng học), GS Nguyễn Văn Út (Da Liễu), GS Bùi Quốc Hương (Thần kinh), GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim mạch), GS Lê Xuân Chất (Huyết học), GS Đào Đức Hoành (Ung thư) và GS Nguyễn Huy Can (Cơ thể Bệnh lý).
Từ 1965-1966, những thầy cô đào tạo Tiến Sĩ, Thạc Sĩ từ Hoa Kỳ lần lượt trở về và phong Giáo Sư: Nguyễn Khắc Minh (Gây Mê), Bùi Duy Tâm (Sinh hoá), Nguyễn Ngọc Giệp (Phụ Sản), Vũ Quí Đài (Vi Sinh học) - Đỗ Thị Nhuận (Ký Sinh Trùng học), Đào Hữu Anh (Giải Phẫu Bệnh), Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh Trực).
 
Nguồn cán bộ giảng còn được bổ sung bằng những chuyên viên ở Châu Âu, Bắc Mỹ trở về như BS Nguyễn Thế Minh (Nội Khoa, Pháp), BS Trần Kiêm Thục (Bệnh Tiêu Hóa, Pháp), BS Trần Thế Nghiệp (Quang Tuyến, Pháp), BS Lê Dư Khương (Giải Phẫu, Đức), BS Liễu Thanh Tâm (Quang Tuyến, Pháp), BS Phó Bá Đa (Giải Phẫu, Mỹ), BS. Hoàng Minh Mậu (Tiêu Hóa, Mỹ), Lê thị Tuyết Nga (Nhi khoa, Pháp), BS. Thái văn Kim (Nhi Khoa, Pháp).
 
Đến niên khóa 1967-1968, tổng số nhân viên giảng huấn là 91, với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm viên.
 
Hàng năm, nhà trường tổ chức thi tuyển giảng viên từ nguồn Bác sĩ  trong nước, những người trúng tuyển như Văn Tần (Ngoại khoa), Võ thành Phụng (Chấn thương chỉnh hình, Phẫu thuật Nhi), Văn Kỳ Chương (Ngoại Khoa), Văn Kỳ Nam (Ngoại Khoa), Nguyễn văn Điền (Chấn thương Chỉnh hình), Lê Kính (Chấn Thương Chỉnh Hình), Đặng Phú Ân (Niệu khoa), Nguyễn Thị Bích Tuyết (Sản Phụ khoa), Trần thị Minh Châu (Sản Phụ khoa), Trần Ngọc Bảo (Nội Khoa), Trần Đình Đôn (Nhi khoa), Nguyễn Bá Duy (Nhi Khoa), Phạm Long Trung (Lao và bệnh Phổi), Bùi Quang Minh (Lao và bệnh Phổi), Nguyễn Ngọc Lĩnh (Truyền Nhiễm), Nguyễn thị Trà Mi (Da Liễu), Lê Sỹ Quang (Sinh Lý), Lê Tiến Văn (Vi Sinh), Nguyễn thị Minh Chí (Vi Sinh), Bồ Kim Khánh (Vi Sinh), Mạnh Xuân Văn (Sinh Hóa), Trần thị Hồng Nhung (Sinh Hóa), Đinh Hải Tùng (Vi Sinh), Mùi Quý Bồng (Ký Sinh học), Đỗ Danh Thụy (Ký Sinh học), Phạm văn Ngà (Giải Phẫu Bệnh), Trần Xuân Mai (Vi Nấm & Ký Sinh Học), Nguyễn Thúy San (Vi Nấm & Ký Sinh Học), Bùi đắc Chí (Mô Phôi), Phùng Hữu Chí (Tiêu Hóa), Hoàng Xuân Chỉnh (Tiêu Hóa), Nguyễn Phú Hiếu (Tiêu Hóa), Đặng Thị Bạch Yến (Tim Mạch), …. Các giảng viên này được qui hoạch để đi du học, bồi dưỡng nghiệp vụ ở Hoa Kỳ và châu Âu.  Đội ngũ nhân viên giảng huấn được sắp xếp theo 5 cấp:
 
 Giáo Sư Thực Thụ (Professeur tiltulaire)
 Giáo Sư Diễn Giảng (Professeur délégué)
 Giáo Sư Ủy Nhiệm (Professeur fonctionnel)
 Giảng Sư (Chargée de Cours)
 Giảng Nghiệm Trưởng (Assistant chef)
 Giảng Nghiệm viên (Assistant)
 
 
Những người tốt nghiệp đại học có thời gian học dưới 7 năm (Dược Sĩ, Cử Nhân, Kỹ Sư, …), thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, sẽ được bổ nhiệm Giảng Viên.
 
Những người tốt nghiệp đại học có thời gian học 7 năm (Bác Sĩ), thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, được bổ nhiệm Giảng Nghiệm Trưởng.
 
Những người tốt nghiệp Tiến Sĩ , thi đậu kỳ thi tuyển giảng viên của nhà trường, hoặc những Giảng Nghiệm Trưởng có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy, được bổ nhiệm Giảng Sư.
 
Những Giảng Sư có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Ủy Nhiệm
 
Những Giáo Sư Ủy Nhiệm có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Diễn Giảng.
 
Những Giáo Sư Diễn Giảng có công trình nghiên cứu khoa học và thâm niên giảng dạy sẽ được bổ nhiệm Giáo Sư Thực Thụ
 
Từ Giảng Sư trở lên có quyền hướng dẫn Luận Án và tham gia Hội Đồng chấm Luận Án do Trưởng Khoa bổ nhiệm.
 
Đến niên khóa 1967-1968, Y Khoa Đại Học Đường Saigon có 91 cán bộ giảng với 16 GS thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm trưởng – giảng nghiệm viên. [5]
 
Về hệ thống trợ giảng, có các Nghiệm chế viên (préparateur) cho các bộ môn y học cơ sở. Các nghiệm chế viên này được tuyển hàng năm để trợ giảng cho đội ngũ giảng viên.  Ứng viên là các sinh viên y khoa năm thứ 4 - 6, phải qua một bài thi viết, một bài thực hành và một bài thuyết trình 5 phút trước Ban Chủ Nhiệm Bộ Môn. Nếu được tuyển dụng và chính thức bổ nhiệm, người này sẽ được hưởng một mức lương tương đương 50% lương một bác sĩ mới ra trường. Công việc chính là chuẩn bị và giảng thực tập cho sinh viên, phụ Giáo Sư tiến hành nghiên cứu khoa học (kết hợp làm Luận Án).
 
Về Nội trú các bệnh viện (Interne des hopitaux): tại các bộ môn lâm sàng có nhu cầu, nhà trường tổ chức thi tuyển nội trú. Ứng viên là các sinh viên y khoa năm thứ 5, thứ 6, phải qua một bài thi viết GIải Phẫu, Sinh Lý  và một bài thuyết trình 5 phút trước Ban Chủ Nhiệm Bộ Môn. Nếu trúng tuyển, ứng viên sẽ chính thức bổ nhiệm và ưu tiên chọn Bộ Môn/Bệnh Viện theo kết quả xếp hạng. Các nội trú vẫn tiếp tục học như các bạn khác trong lớp, phần lớn thời gian của họ là ở bệnh viện để phụ giúp các thầy/cô trong giảng dạy lâm sang và nghiên cứu khoa học (kết hợp làm Luận Án). Khi ra trường, ngoài tước vị Bác Sĩ Y Khoa, họ còn có quyền sử dụng tước vị “Cựu Nội Trú Các Bệnh Viện” trong khi hành nghề.   
 
Ngoài ra, còn có các Nội trú Ủy nhiệm (Interne fonctionnel): sinh viên năm thứ 6, nếu có nhu cầu làm việc như Nội trú, có thể xin Giáo Sư Trưởng Bộ Môn, nếu được chấp thuận, Giám Đốc Bệnh Viện nơi Bộ Môn hợp tác có thể ký quyết định bổ nhiệm, kỳ hạn 6 tháng, có thể tái hạn. Khi ra trường, ngoài tước vị Bác Sĩ Y Khoa, họ không được quyền sử dụng tước vị “Cựu Nội Trú Các Bệnh Viện” trong khi hành nghề.   
 
1.3. Sinh viên và học trình
 
Niên khóa đầu 1946-1947 chỉ có khoảng 12 người cho tất cả các lớp. Niên khóa 1947-1948 có 32 người. Niên khóa 1948-1949 tăng lên tới trên 80 người.Vào thập niên 1970 Trường Y khoa có 1400 sinh viên theo học và mỗi năm cho ra trường hơn 200 người. Số sinh viên nộp đơn dự tuyển là hơn 5.000 để chiếm 200 chỗ nhập học mỗi năm.
 
Thời đó ở Việt Nam cũng như ở bên Pháp muốn đậu bằng y khoa bác sĩ phải đậu xong hai phần tú tài (I và II), qua một năm đầu tiên tại Đại Học Khoa Học và 6 năm y khoa. Từ 1954 đến 1962 muốn vào y khoa phải có chứng chỉ PCB (Physique – Chimie - Biologie) rồi ghi danh vào học; từ 1963 đến 1969, nhà trường tuyển sinh từ Tú Tài 2, sau đó gởi sang Đại Học Khoa Học học chứng chỉ APM (Année Pré-Medicine, Dự Bị Y Khoa); từ 1970 đến 1975 đổi từ APM sang SPCN (Science naturelle - Physique - Chimie).
 
Học trình y khoa là 6 năm theo khuôn mẫu y khoa Pháp. Hai năm đầu học các môn cơ thể họcmô họcsinh hóa họcsinh lý, và triệu chứng học. Năm thứ ba và tư học các môn cơ thể bệnh lýnội khoa và ngoại khoa. Cũng hai năm này sinh viên bắt đầu đi thực tập ở các bệnh viện. Năm thứ năm và sáu chuyển sang các môn bệnh lý chuyên môn: nhi khoasản phụ khoatâm thần... và tăng thời gian thực tập ở các bệnh viện. Năm thứ sáu cũng là năm hoàn tất luận án.
 
Văn bằng Tiến Sĩ Y Khoa Quốc Gia được cấp phát sau khi bảo vệ thành công Luận Án trước Hội Đồng do Khoa Trưởng bổ nhiệm. [6]
 
Bảo vệ Luận Án Tiến Sĩ Y Khoa trước Hội Đồng
 
 Đọc lời thề Hippocrates
 
 
Số Bác sĩ ra trường hàng năm của hai trường Y ở Saigon và Hà Nội 1947-1952:   
 
     
      


 
 
Khoá ra trường đầu tiên vào năm 1947. Có 7 sinh viên trình luận án. Đó là các bác sĩ Pierre Boucheron, Trần Đình Đệ, Lê văn Hùng, Trần Minh Mẫn, Mme A. Saint Mieux, Lê Văn Thuấn và Nguyễn Văn Thọ. Trong số 7 vị này có tới 3 vị đã lựa chọn đề tài về sản phụ khoa để làm luận án, chứng tỏ sự hoạt động mạnh mẽ của bảo sanh viện Từ Dũ ngay từ hồi đó. [3]
 
Theo tài liệu của GS Nguyễn Đức Nguyên, tổng số luận án được trình và chấp thuận tại Y Khoa Đại Học Đường Saigon từ năm 1947 cho tới 1972 là 1779 luận án. Số luận án từ 1972 tới 1975 là bao nhiêu không rõ vì không có ghi chép trong tài liệu nào. Tuy nhiên với sĩ số 200 người một lớp, ta có thể ước tính là có vào khoảng trên dưới 600 luận án đã được trình trong thời kỳ đó. Như vậy, tổng số luận án ra trường của Y Khoa Đại Học Đường Saigon từ 1947 cho tới 1975 là vào khoảng 2380 luận án. [7]
 
Sinh viên Trường Đại học Y khoa Sài Gòn có ra một tờ báo định kỳ mang tên Tình Thương, xuất bản từ năm 1964 đến năm 1967 thì phải đình bản.
 
 
 
 
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: