Thứ Năm, 9 tháng 10, 2025

GIẤC MƠ BÁC SĨ NỘI TRÚ CỦA TÔI!

 

Lời Thầy Phạm Biểu Tâm, Khoa trưởng Y khoa Sài Gòn

LE Chi Dung FB


Khi đã trở thành sinh viên y khoa Sài Gòn thì ước mơ cháy bỏng trong tôi là thi đậu vào nội trú. Lý do đơn giản là khi học nội trú thì được kề cận các Thầy, được đào tạo bài bản để trở thành một bác sĩ giỏi. Sinh viên (SV) nội trú ngày đó có lương dư sống, tăng theo năm, được cấp phòng trong bệnh viện (BV) và các bữa ăn. Từ “nội trú” có nghĩa là suốt ngày đêm ở trong BV. Vì vậy hằng ngày, sinh viên nội trú tham gia hầu hết các hoạt động chuyên môn của bệnh viện, khám bệnh, trực và giải quyết các ca cấp cứu.
Ngày đó học hành miễn phí các cấp. Bắt đầu hè năm thứ nhất thì tôi đã theo các anh nội trú học, năm I-II ở BV Chợ Rẫy với các bác sĩ nội trú (BSNT) YSG 1967-74 (Hồ Hội, Trần Văn Minh, ...), năm III theo BS Hồ Đắc Đằng ở Trung tâm thực tập y khoa Gia Định (tức BV Nguyễn Văn Học, nay là BV Nhân Dân Gia Định) và nhóm tứ đại đệ tử nội khoa mới tu nghiệp ở Mỹ về. Dạo ấy, buổi sáng đi học lâm sàng có các thầy lớn (giáo sư) giảng dạy, trình bệnh án cho thầy bằng tiếng Anh hoặc Pháp. Buổi chiều học nhóm có các anh nội trú hướng dẫn. Buổi tối tự nguyện vào trực cấp cứu, khám và giải quyết các trường hợp bệnh với sự chỉ dẫn của đàn anh, ca nào khó thì chờ nội trú vào giải quyết và qua đó được các anh dạy dỗ thêm. Thường thì buổi tối các anh nội trú vào bệnh viện lúc 7pm và ở lại trong phòng riêng, tham gia giải quyết các ca cấp cứu nội, ngoại viện trong đêm. Nhờ bám trụ ngày đêm trong bệnh viện lại được các đàn anh, thầy lớn hướng dẫn nên các BSNT thâm sâu về lý thuyết và giỏi về thực hành. Bọn tôi nhờ theo sát các anh nên học và làm được rất nhiều, chỉ mới năm I-II thôi mà đã may cấp cứu các vết thương, cắt bao quy đầu (phymosis), chọc dò tuỷ sống, đánh giá dịch não tuỷ bằng mắt, chọc dò màng phổi/ màng bụng... và phụ mổ các ca viêm ruột thừa, dẫn lưu màng phổi.
Chính vì vậy, danh xưng “Cựu nội trú các bệnh viện Sài Gòn” được mọi người trân trọng. Các bác sĩ nội trú rất tự hào về điều này, trên bảng hiệu phòng mạch hoặc danh thiếp của các anh luôn có “danh xưng” trên. Cũng tương tự như các bác sĩ Pháp rất hãnh diện khi “khoe” mình là “Ancien Interne des hôpitaux de Paris- AIHP” vì theo họ BSNT Paris giỏi hơn, “oách” hơn bác sĩ nội trú các thành phố khác (!). Và lẽ dĩ nhiên trên “carte de visite”, sách vở của họ luôn ghi “titre AIHP” bên cạnh các chức danh khác như professeur- giáo sư... Điều đó thể hiện đẳng cấp, giá trị thương hiệu! Lương BSNT của Pháp cũng rất cao! Hầu hết các thực tập sinh Việt Nam (VN) ở Pháp sau 1975 hưởng lương như nội trú khi đi tu nghiệp theo diện FFI (faisant fonction d’interne).
Trường y khoa Sài Gòn đào tạo bác sĩ nội trú theo chương trình Pháp kể từ ngày thành lập vào năm 1947, lúc đó là một chi nhánh của Trường đại học Y Dược Hà Nội. GS Hồ Đắc Di học y khoa Paris từ năm 1920, là BSNT Việt Nam đầu tiên ở Pháp. Cụ về nước năm 1931, trở thành giáo sư năm 1943 và là Hiệu trưởng đại học Y Hà Nội năm 1954-73. Thời Pháp thuộc, các bác sĩ phải sang Pháp thi và học nội trú. GS Tôn Thất Tùng là người đầu tiên thi đậu BSNT đào tạo ở Việt Nam vào năm 1938, kế tiếp năm sau là GS Phạm Biểu Tâm rồi lần lượt các thầy khác... Do chiến tranh nên từ năm 1945 trường Y Hà Nội không đào tạo nội trú nữa cho đến năm 1974. Trong khi đó trường Y Sài Gòn vẫn đào tạo BSNT cho đến năm 1975, khởi đầu là do các giáo sư chủ nhiệm bộ môn chọn trong số các SV xuất sắc, về sau qua một kỳ thi tuyển.
Trước 1975, trường y khoa Sài Gòn chỉ tuyển sinh nội trú khoảng 10% tổng số sinh viên nên mỗi năm chỉ có khoảng 20-25 người. Chương trình nội trú theo kiểu Pháp nhằm đào tạo ra những bác sĩ “tinh anh” vượt trội, xây dựng đội ngũ nồng cốt của nền y tế. Cuối năm thứ V thi tuyển nội trú, học trong 3 năm. Sinh viên nội trú thường được gọi tắt là “Interne” theo tiếng Pháp, không học nội trú được gọi là “externe” nôm na là “ngoại trú”. Kỳ thi nội trú tổ chức chung, sau đó chọn chuyên khoa theo thứ tự điểm thi đạt được, ai cao điểm hơn được chọn trước. Vì vậy, người thi đạt điểm cao thường chọn được ngành minh thích và ngược lại. Thi ra trường cũng vậy, ai điểm cao được ưu tiên chọn nhiệm sở trước dù trong môi trường dân hay quân y. Ngày đó, sinh viên nội trú thường chọn chuyên khoa có vị thầy mà mình ngưỡng mộ chứ không phải chọn ngành “hot” đông bệnh nhân, dễ kiếm tiền... Quý trọng, kính yêu Thầy nên thích chuyên ngành của thầy là tâm lý dễ hiểu. Dĩ nhiên cũng tuỳ theo tâm tính của từng người, người sống nội tâm thích “Nội khoa”, người hoạt bát thích “Ngoại khoa”, người “yêu con nít” thích Nhi khoa.. Nôm na là thế tuy không phải lúc nào cũng đúng.. Có khi người chọn ngành mà nhiều khi nghề lại chọn người! Vì vậy các nội trú thường chọn ngoại khoa (theo thầy Phạm Biểu Tâm), cơ thể học (thầy Nguyễn Hữu, Trần Anh), niệu khoa (thầy Ngô Gia Hy), chỉnh trực (thầy Trần Ngọc Ninh, Hoàng Tiến Bảo), ung thư (thầy Đào Đức Hoành), sản phụ khoa (thầy Nguyễn Văn Hồng, Hồ Trung Dung), nhi khoa (thầy Phan Đình Tuân, cô Trịnh Thị Minh Hà), giải phẫu thần kinh (thầy Đặng Văn Chiếu), nội khoa (thầy Nguyễn Ngọc Huy, Trần Lữ Y), mắt (thầy Nguyễn Đình Cát)... Một lý do khác nữa là lương bác sĩ ngày ấy rất cao và giống nhau cho tất cả các chuyên khoa, không kể phụ cấp cho những trường hợp đặc biệt. Trong bệnh viện, lương của một bác sĩ phẫu thuật 30 ca mỗi tháng cũng bằng lương của một bác sĩ nội khoa, lương hàng tháng giống nhau không phụ thuộc vào số ca mổ. Với đồng lương đủ nuôi sống đại gia đình và để dành nên bác sĩ dễ làm tròn chức trách của mình với lương tâm nghề nghiệp. Lương y tá cũng khá, đủ nuôi con cái ăn học. Hồi đó, bệnh nhân nằm viện được miễn phí lại được bác sĩ, y tá chăm sóc tận tình nên bệnh viện được gọi một cách thân ái là “nhà thương”. Có lần, một bác sĩ rất lớn trong ngành nói với tôi, lúc đó mới học năm thứ nhất, “Chuyên ngành nào cũng hay cháu à nhưng có 2 nghề luôn đông bệnh nhân là sản và nhi vì thời nào đàn bà không đẻ và con nít chẳng đau”. Ông cũng nhận xét thêm một số chuyên khoa khác.
Một điểm khác biệt nữa là các BSNT mới có thể làm giảng viên đại học, làm việc trong các bệnh viện & viện nghiên cứu lớn. Các bác sĩ “ngoại trú” ít có cơ hội hơn. Tuy nhiên do tình hình chiến tranh nên đa số các bác sĩ ra trường đều phải vào quân đội vì vậy các ranh giới cũng bị nhạt nhoà.
Từ năm 1972, phong trào “Tự trị đại học” khởi động mạnh mẽ với nhiều cuộc hội thảo. Ảnh hưởng của nền giáo dục y khoa Hoa Kỳ tác động lên chương trình đào tạo nội trú vốn theo kiểu Pháp. Chương trình nội trú kiểu Mỹ “residency” kéo dài 4-5 năm tuỳ chuyên khoa sâu tương đương với “Interne” của Pháp hiện nay và 2-3 năm cho ngành “y học gia đình, y tế công cộng” có thể xem như “externe” của Pháp trên một phương diện nào đó. Các thầy phụ trách trường Y Sài Gòn thân Mỹ hơn thay thế các thầy thân Pháp nên đã dự định từng bước tăng số lượng tuyển nội trú hàng năm để dần thành đại trà như ở Hoa Kỳ.
Trong đại gia đình, cậu tôi là tấm gương sáng về học và thực hành ngành y. Trong chiến tranh chống Pháp, cậu ở nhà cày ruộng. Hoà bình lập lại, cậu cắp sách đến trường trễ hơn so với bạn bè cùng trang lứa nhưng chịu khó học và thi đậu y khoa Sài Gòn. Cậu là BSNT ngoại khoa, đệ tử ruột của thầy Nguyễn Hữu. Năm 1972, cậu được giải thưởng quốc gia về khâu nối mạch máu. Thời điểm đó ở tỉnh lẻ mà khâu nối thành công mạch máu bị đứt là một điều đáng ngưỡng mộ. Cậu được thầy Phạm Biểu Tâm đồng ý nhận về làm giảng viên bộ môn ngoại nhưng chiến tranh leo thang “Mùa hè đỏ lửa” làm cậu đành buông theo mệnh nước... Ngày ấy, tôi ước nguyện học tập gương của cậu trở thành BSNT và chuẩn bị đầy đủ hành trang, nội lực để thực hiện ước mơ.
Từ năm thứ I đến năm thứ III, tôi là đại diện của lớp tham gia Hội đồng nội trú và sinh viên, Chủ tịch là các anh Nguyễn Xuân Ngãi (NT nội tim mạch- GS Trần Lữ Y, TTTT y khoa Gia Định), năm sau là anh Đỗ Hoàng Ý (NT mắt- GS Nguyễn Đình Cát, BV Bình Dân). Hội đồng nội trú và SV hàng tháng có xuất bản đặc san “Kiến thức y khoa” gồm các nghiên cứu, bài viết của các giảng viên trẻ và SV do anh Nguyễn Xuân Ngãi làm Chủ biên. Ban biên tập gồm có các BSNT Nguyễn Thy Khuê, Hồ Hội, Trần Văn Minh, Phan Thanh Hải (phụ trách tài chánh), Võ Văn Thành, Nguyễn Phan Khuê..., SV Y2 Bùi Văn Hiệp và tôi- SV Y1. Cuối năm 1974, bổ sung thêm bạn cùng lớp tôi là Võ Minh Thành. Tôi hân hạnh là SV trẻ nhất nằm trong Ban biên tập. Không biết các số đặc san này hiện còn lưu giữ trong thư viện trường hay không? Anh Đỗ Hoàng Ý có sáng tác một hành khúc sinh viên y khoa, lâu ngày quá tôi quên mất nhạc và lời.
Mọi việc có vẻ như đang đi đúng hướng “On the right track”? Tuy nhiên, “Bác sĩ nội trú” đối với tôi vẫn chỉ là một giấc mơ! Ôi, Ước mơ mãi mãi là mơ ước!
Lịch sử sang trang từ 30/04/1975! Chế độ đào tạo nội trú bị tạm ngưng. Lớp YSG 1969-76 rất đặc biệt. Đây là khoá cuối cùng tuyển sinh vào lớp dự bị tiền y khoa (APM- année pré-médicale) rồi học tiếp 6 năm y khoa. Từ niên khoá sau, các thí sinh muốn thi vào y khoa phải có chứng chỉ năm thứ nhất trường khoa học như các chứng chỉ lý hoá vạn vật (SPCN), sinh lý hoá (PCB), toán lý hoá (MPC), toán lý (MGP). Lớp YSG 1969-76 đã thi tuyển nội trú từ cuối năm 1974 và đang được đào tạo theo chuyên ngành ... nhưng bị ngưng rồi phân chia lại theo một hướng mới: đào tạo sơ bộ chuyên khoa (SBCK). Nhiều anh chị bị thay đổi chuyên khoa, ví dụ anh Nguyễn Sào Trung là nội trú bộ môn ngoại chuyển qua giải phẫu bệnh (GPB) vì trước đây có thời gian tình nguyện phụ “Aide” chỉ thực tập GPB cho sinh viên... Lớp này trở thành lớp SBCK1. Xin kể vài anh chị của lớp là giảng viên ở trường để các bạn dễ hình dung như GS Nguyễn Sào Trung- Khoa trưởng Khoa Y, PGS Nguyễn Trần Chính- Chủ nhiệm bộ môn Nhiễm, BS Trần Thị Vân Anh- bộ môn GPB, Nguyễn Hữu Chí (c)- bộ môn Nhiễm. Nếu không có sự kiện lịch sử 30/4 thì lớp YSG 1969 sẽ tốt nghiệp năm 1976 nhưng phải đi lao động, học chính trị và tốt nghiệp trễ 2 năm, vào tháng 10/1978. Lớp YSG 1971-77 học ĐH khoa học năm 1970, thi đậu vào y khoa năm 1971. Lớp này không tuyển nội trú, không phân chuyên khoa sơ bộ nhưng cũng phải học chính trị, đi lao động nên trở thành lớp y đa khoa và tốt nghiệp trễ hơn 1 năm, vào tháng 8/1978 thay vì năm 1977. Vài khuôn mặt của lớp là giảng viên như BS Lê Minh- nội thần kinh, BS Bùi Văn Ninh (c), Nguyễn Văn Thông- ngoại tổng quát, BS Đỗ Đại Hải- sinh lý bệnh, BS Hồ Xuân Phương (c)- bí thư đoàn khoa Y. Lớp kế tiếp là lớp chúng tôi, học Đại học Khoa học năm 1971, học YSG từ 1972 và tốt nghiệp tháng 12/1978. Lớp được gọi là SBCK2, không tuyển nội trú. Giấc mơ bác sĩ nội trú của tôi tan vỡ!
Chương trình đào tạo SBCK kéo dài 10 năm, đến lớp SBCK10 thì chấm dứt, chia chuyên khoa từ năm thứ 6. Riêng lớp SBCK4 chia chuyên khoa từ năm Y5. Các lớp sau đó, năm cuối Y6 được chia thành 4 chuyên khoa nội, ngoại, sản, nhi gọi là hệ y đa khoa hẹp. Vài năm sau thì không phân chuyên khoa vào năm cuối nữa và trở thành hệ y đa khoa như hiện nay.
Trở lại việc đào tạo nội trú thì nhờ sự vận động tích cực của các thầy lưu dung, đặc biệt là 2 thầy Phạm Biểu Tâm (hiệu phó), Ngô Gia Hy ( phó khoa y) và sự ủng hộ của thầy hiệu trưởng Trương Công Trung nên Bộ cho phép trường đào tạo bác sĩ nội trú kể từ lớp SBCK3 tức lớp sau tôi 1 năm. Khoá đầu tiên sau 1975 này tuyển được 10 nội trú. Tôi nhớ có Vũ Lê Chuyên- tiết niệu, Lê Nữ Hoà Hiệp- ngoại mạch máu, Lê Phúc- chấn thương chỉnh hình, Lê Thị Ngọc Dung- nội, Phan Quang Chí Hiếu- y học dân tộc, Phạm Như Hùng (c)- nội thần kinh, Lê Thành Lý- nội tiêu hoá, Nguyễn Ngọc Rạng- vệ sinh dịch tễ, Võ Hữu Thuận, Lý Hữu Trung- nội.
Dòng chảy đào tạo nội trú tiếp tục với số lượng ngày càng tăng, đạt trở lại tỷ lệ 10% sinh viên, điều kiện thi phải là khá giỏi. Chương trình đào tạo BSNT kéo dài 3 năm. Cách tuyển chọn cũng thay đổi theo thời gian, có khi thi chung rồi chọn chuyên khoa theo thứ tự điểm thi, có khi chọn chuyên khoa rồi thi theo từng chuyên khoa. Thời điểm để tuyển sinh nội trú cũng thay đổi, không còn là cuối năm Y5 như trước nữa mà phải tốt nghiệp bác sĩ đa khoa xong mới được thi; có lẽ do trước đây chương trình đào tạo BS là 7 năm (1 dự bị + 6 y) còn sau 1975 chỉ còn 6 năm. Trước khoá 1998-2004 thì phải tốt nghiệp 1 năm rồi mới được dự thi, từ khoá sau thì có thể thi ngay sau khi tốt nghiệp. Theo PGS Ngô Quốc Đạt, Hiệu trưởng ĐH Y Dược TPHCM, thì năm nay 2025 trường y tuyển khoảng 270 BSNT trong tổng số >800 BS (#33,5%). Trường cho thí sinh chọn nguyện vọng chuyên khoa trước (tối đa 3 NV) và tiến hành thi tuyển ưu tiên theo thứ tự nguyện vọng. Như vậy, tỷ lệ tuyển thấp hơn so với ĐH Y Hà Nội (42%) và cách tuyển sinh cũng khác.
Học viên BSNT đóng học phí cao, trước đây có phụ cấp nhưng không đáng kể và tuỳ BV đang đi thực tập còn hiện nay thì khoản phụ cấp này không còn nữa vì BV chỉ chi trả cho BS có giấy phép hành nghề (theo quy định thì chỉ cấp cho BS đã thực hành đủ 18 tháng sau tốt nghiệp). BSNT không có phòng riêng và các bữa ăn trong BV như trước 1975. Như vậy, sinh viên nội trú hiện nay ít có cơ hội bám bệnh viện, chăm bệnh nhân hơn ngày xưa. Tính chất “nội trú” bị giảm đi nhiều so với ngày trước. Dù vậy, các bác sĩ nội trú tay nghề cao hơn hẳn các bác sĩ thường. Tuy nhiên, một thời gian dài có điều bất hợp lý của xã hội ảnh hưởng ít nhiều đến quyết định thi nội trú của các sinh viên khá, giỏi. Đó là nếu học nội trú thì kéo dài thêm 3 năm nữa mới ra trường so với các bạn cùng khoá, tốn thêm tiền bạc của cha mẹ- một gánh nặng đối với gia đình nghèo! Sau khi tốt nghiệp, BSNT cũng khó tìm được việc làm. Đôi khi xin được nhiệm sở thì lại làm việc dưới quyền bạn học cùng lớp năm xưa không đủ điểm thi nội trú nhưng vì lý do nào đó (mà ai cũng biết) đã được phân công tác ngay sau khi ra trường! Tình trạng này hiện nay có cải thiện, BSNT được tiếp nhận ngày càng nhiều hơn ở các bộ môn trường đại học, bệnh viện công và tư.
Như vậy việc đào tạo BSNT mỗi thời mỗi khác, mỗi trường mỗi khác, chương trình và cách thức đào tạo cũng khác, chế độ chính sách cũng khác và có lẽ “cái hồn” “cái chất” cũng khác!
Bản thân tôi vì thời cuộc nên không được tham dự cuộc thi vào nội trú nhưng lại có cơ duyên được học và thực hành 2 chuyên khoa khác nhau là Giải phẫu bệnh (surgical pathology, histopathologie, nói tắt là anapath)- một chuyên ngành cận lâm sàng và Chấn thương chỉnh hình/ chỉnh trực (trauma & orthopaedics, traumatologie & orthopédie)- một chuyên ngành lâm sàng phẫu thuật. Dù không là BSNT nhưng tôi luôn luôn học hỏi và phụng sự với tinh thần bác sĩ nội trú. Tôi nhận thấy chuyên ngành nào nếu học sâu, hiểu kỹ, thực hành giỏi thì đều thấy nhiều điều hay từ đó đam mê gắn bó với nghề. Học y muốn thành công thì phải có lòng trắc ẩn, vị tha, thương người, quan tâm đến nỗi đau của người khác. Có như vậy người thầy thuốc mới chăm sóc bệnh nhân với tay nghề ngày càng cao của mình!
Tôi tự hào là một “Bác sĩ nội trú không được cầu chứng tại toà”!
LCD
9/2025
(Viết đu trend nội trú)

Viết tiếp câu chuyện TIẾN SĨ Y KHOA & TÔI...

Tôi có một ước mơ không đạt được là trở thành Bác sĩ nội trú. Nhưng để có bằng/học vị Tiến sĩ (TS) thì niềm mong muốn không cháy bỏng lắm, có thì tốt, không cũng chả sao. Lý do là:
- trước 1975 ở Trường Y Sài Gòn thì gần như tất cả bác sĩ (BS) đều trình luận án “Tiến sĩ y khoa quốc gia- TSYKQG” (Doctorat d’état en médecine) theo kiểu Pháp sau khi đậu 4 chứng chỉ nội ngoại sản nhi và tốt nghiệp. Có thể trình luận án ngay khi ra trường hoặc nhiều năm sau tuỳ hoàn cảnh. Vài câu chuyện kể thú vị là có lần BS trình luận án lại là giáo sư của trường. Vị này sau khi tốt nghiệp thì đi du học Mỹ lấy Tiến sĩ rồi về trường phụ trách bộ môn y tế công cộng, một thời gian sau “Thầy” mới bảo vệ luận án TSYKQG. Một trường hợp khác có Thầy trong Hội đồng giám khảo chấm luận án TSYKQG lại là Sinh viên Y6. Anh này vốn là dược sĩ, Giám đốc Trung tâm xét nghiệm chuẩn thức trung ương đang học thêm ngành y. Lần đó, anh được mời làm giám khảo cho luận án liên quan đến dược lý. Nhiều trường hợp thương tâm là sau khi tốt nghiệp bị động viên vào quân đội rồi vĩnh viễn ra đi chưa kịp về trình luận án!
Không có bằng Tiến sĩ y khoa thì không tham gia Y sĩ đoàn được và như vậy khi hành nghề không được Hội đoàn bảo vệ, chỉnh huấn. Vì vậy tấm bằng Tiến sĩ y khoa đã được mặc định. Danh xưng “Đốc tờ” tương xứng cho cả 2 nghĩa “Bác sĩ (medical doctor- MD/ docteur en médecine) và “Tiến sĩ” (doctor/docteur). Do đào tạo lâu năm hơn nên lương của BS cao hơn hẳn các ngành khác.
- sau 1975, nhà trường phải lo chỉnh đốn nhiều thứ, Trường Đại học Y Dược TPHCM chưa đủ thẩm quyền đào tạo tiến sĩ. Bản thân các bác sĩ cũng phải lo nhiều thứ: làm sao tồn tại được, làm sao nuôi sống vợ con, giúp đỡ cha mẹ già, ở lại quê nhà hay vượt biển ra đi... Bản thân tôi khi quyết định xin chuyển nhiệm sở về bệnh viện vào năm 1990 để gầy dựng di sản “Bướu xương & phần mềm” mà Thầy Hoàng Tiến Bảo để lại thì con đường tiến sĩ đã tạm thời gát qua một bên.
Bây giờ xin lạm bàn về “TIẾN SĨ Y KHOA (TSYK)”.
Có gì mà “hot” vậy?! Vấn đề này cũng phức tạp không kém câu chuyện thế thái nhân tình. Để hiểu rõ thì trước hết phải biết hệ thống giáo dục mỗi nước mỗi khác, không ai giống ai và thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh. Giáo dục nước ta lại càng rắc rối vì bị ảnh hưởng bởi quá nhiều hệ thống: Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung quốc, Đông Đức, Hungary, CHLB Đức, Anh, Úc...Các vị lãnh đạo ngành thường chịu ảnh hưởng nền giáo dục nơi mình được đào tạo. Riêng ngành y các nước, cách đào tạo cũng khác nhau. Ví dụ:
- Tuyển sinh từ học sinh tốt nghiệp trung học: Anh, Pháp, Úc, Nhật, Trung quốc... Ở Anh chỉ học Y 4 năm có bằng “Cử nhân y khoa (bachelor of medicine)” sau đó học chuyên khoa. Pháp học Y 7 năm trong đó có 1 năm dự bị, rồi học nội trú 3 năm trình luận án TSYKQG. Sau đó làm Assistant- Chef de clinique 2 năm rồi chính thức hành nghề bác sĩ thực hành Praticien ở bệnh viện (PH) hoặc ở trường (PA) nếu muốn làm giảng viên, giáo sư. Ở Úc thì cũng học 6 năm rồi học nội trú gọi là “Registrar” để được đào tạo chuyên khoa...
- Tuyển sinh từ sinh viên đã có bằng cử nhân: Mỹ, Canada,... Ở Mỹ học cử nhân (Bachelor of science-BS, bachelor of art-BA) mất từ 3-4 năm, bậc này gọi là “undergraduate”. Sau đó thi vào y học 4 năm tốt nghiệp bác sĩ (medical doctor- MD) nhưng chưa được hành nghề. Phải học “residency” (nội trú) 4-5 năm để được đào tạo chuyên khoa, tốt nghiệp có bằng chuyên khoa (American Board of Orthopaedics, of Cardiology, of Pathology...), gọi nôm na là bằng liên bang. Xong phải đi làm “fellowship” 1-2 năm rồi mới được chính thức làm việc độc lập. Muốn hành nghề tại tiểu bang nào thì phải thi lấy giấy phép hành nghề ở tiểu bang đó, thường được gọi nôm na là “bằng tiểu bang”. Nếu làm bác sĩ gia đình, y tế công cộng thì số năm học chuyên khoa và “fellowship” ngắn hơn nhiều. Lưu ý từ “fellowship” ở Úc có nghĩa khác! Ở Mỹ có chương trình đào tạo Bác sĩ- Tiến sĩ (MD + PhD) cho những sinh viên y khoa muốn đi theo con đường nghiên cứu, giảng dạy. Các SV này vừa học 4 năm để có bằng MD vừa thực hiện nghiên cứu với các giáo sư. Sau đó dành 1-2 năm thực hiện luận án và bảo vệ Tiến sĩ (Doctor of philosophy, PhD). Trong các cơ sở như BV, các giáo sư hay tiến sĩ không được quyền điều trị (cho thuốc, thực hiện phẫu thuật) (chỉ được quyền góp ý) nếu không có bằng chuyên khoa và không có giấy phép hành nghề. Các trường đại học xét phong giáo sư, phó giáo sư cho trường của mình dựa vào các bằng chuyên khoa được đào tạo (American board, PhD) và theo nhu cầu của trường.
- Do nhu cầu đào tạo liên tục nên có sự liên kết giữa các trường đại học trên thế giới, người ta phải tiến hành “matching”, đọ các môn học của các trường. Vì vậy một bác sĩ tốt nghiệp ở Việt Nam muốn học thẳng nội trú “residency” để có bằng chuyên khoa “American board” là không thể. Một số đại học Úc hiện nay tuyển sinh y khoa theo kiểu Mỹ tức từ SV đã có cử nhân để các BS của họ dễ được nhận làm fellow ở Mỹ hơn.
Trở lại tình hình giáo dục ở Việt Nam, hiện có 4 cấp: tiểu học, trung học, đại học và sau/trên đại học. Sau 6 năm cày sâu cuốc bẩm, sinh viên y khoa tốt nghiệp. Tuy mang danh bác sĩ nhưng thực chất được xem như tốt nghiệp đại học, hưởng lương bằng các bạn tốt nghiệp các trường khác dù thời gian đào tạo ngắn hơn (cử nhân, 4 năm). Về sau đại học thì quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho tất cả các ngành là có 2 bậc: cao học (thời gian 2 năm, tốt nghiệp có bằng Thạc sĩ) và nghiên cứu sinh (thời gian 2 năm sau Thạc sĩ, 4 năm sau tốt nghiệp đại học; tốt nghiệp có bằng Tiến sĩ). Riêng ngành y do tính chất đặc thù của ngành thì đào tạo sau đại học theo 2 hướng:
- BS chuyên khoa I, BS chuyên khoa II: các bác sĩ điều trị bệnh nhân ở các cơ sở khám, chữa bệnh như BV, các phòng khám. Họ là những bác sĩ thực hành có tay nghề nhưng thường thiếu khả năng tiến hành nghiên cứu và truyền đạt kiến thức. Bằng Bác sĩ chuyên khoa I, II thuộc Bộ Y tế. Một thực tế là nhiều BS chỉ học chuyên khoa cấp I tức chỉ mới được đào tạo nửa chừng (half training) thì đã hành nghề, không chịu học tiếp chuyên khoa II để được đào tạo đầy đủ, trọn vẹn. Vì vậy có khuynh hướng bỏ bậc I, bậc II mà chỉ đào tạo “Bác sĩ chuyên khoa” kiểu “American Board” nhưng không biết khi nào mới thực hiện được.
- Thạc sĩ, Tiến sĩ y học: công tác trong các viện nghiên cứu, giảng dạy trong trường đại học, cao đẳng. Như vậy, đào tạo ra các Tiến sĩ để nghiên cứu tìm tòi ra cái mới và tham gia giảng dạy truyền thụ kiến thức cho sinh viên, học viên. Họ có kiến thức sâu về một vấn đề, lĩnh vực nào đó nhưng về nguyên tắc họ không được đào tạo để trở thành một bác sĩ giỏi thực hành, điều trị bệnh nhân. Hiện nay ở VN, muốn xét phong giáo sư, phó giáo sư phải có bằng Tiến sĩ vì đây là chức danh dành cho các giảng viên trường đại học. Hội đồng nhà nước xét công nhận các ứng viên đạt tiêu chuẩn và trường đại học bổ nhiệm các giáo sư, phó giáo sư theo nhu cầu của trường mình.
Tuy chủ trương trước đây rạch ròi như vậy nhưng thực tế VN lại trộn lẫn tùm lum. Số là người Việt ta chuộng “Danh” (trong đó có bản thân tôi) nên nhiều BS điều trị ở BV cũng thích có tấm bằng Tiến sĩ dù rằng nhiệm vụ chính của họ là điều trị thật tốt cho bệnh nhân là được rồi. Lẽ dĩ nhiên nếu BS có tham gia giảng dạy, có khả năng nghiên cứu tốt thì việc học để có tấm bằng Tiến sĩ hay được phong Giáo sư cũng là một điều hay. Ngược lại nhiều Tiến sĩ của trường lại tích cực tham gia phẫu thuật, điều trị bệnh nhân mà bỏ bê việc dạy dỗ sinh viên. Ở thái cực nào cũng không tốt; trung dung thì tốt hơn, hài hoà hơn.
Lại bàn về THUẬT NGỮ TIẾN SĨ
Trong lịch sử VN, Tiến sĩ là người thi đỗ kỳ thi cao nhất là thi Đình sau khi đã vượt qua 2 kỳ thi trước đó là thi Hương và thi Hội. Vị Tiến sĩ tân khoa được xướng danh trước Bệ Rồng và được Vua ban áo mũ cân đai, phong làm quan và được vinh quy bái Tổ.
Tiến sĩ dịch từ chữ “Doctor/ docteur” là người hiểu rộng, bác học về một lĩnh vực nào đó, ví dụ Docteur de l’Eglise. Tiến sĩ là người có bằng cấp quốc gia như Ph.D (doctor of philosophy), LL.D (doctor of laws), M.D. (Doctor of Medicine), J.D. (Doctor of jurisprudence), Doctor of science, Ed.D (Doctor of education)...Tiếng Pháp thì có Docteur es lettres, docteur es sciences (bỏ từ 1974), docteur en philosophie, docteur en médecine... Về nguyên tắc thì các học vị (degree) này là ngang nhau. Trước đây, học vị Tiến sĩ được xem là bậc cao nhất nhưng nay thì bể học mênh mông nên có học thêm sau tiến sĩ (Post-Doctor)!
Ở VN hiện công nhận 2 bậc Tiến sĩ (TS): Tiến sĩ và Tiến sĩ khoa học.
- Tiến sĩ: gồm các Phó Tiến sĩ đào tạo trước đây ở VN và các nước XHCN (kandidat nauk), các Tiến sĩ đào tạo trong nước sau luật Giáo dục 1998, các Tiến sĩ đào tạo ở nước ngoài.
- Tiến sĩ khoa học (doktor nauk): tiến sĩ của các nước Liên Xô và Đông Âu cũ, tiến sĩ quốc gia của Pháp, tiến sĩ VN trước Luật giáo dục 1998. Đây là một khái niệm có tính chất lịch sử! Rồi sẽ biến mất theo thời gian. (Cũng nói thêm là ở các nước thuộc Khối thịnh vượng chung Anh và Ireland, Tiến sĩ khoa học chỉ là một danh hiệu có tính chất tôn vinh các cá nhân có đóng góp cho một ngành nào đó, không phải dành cho các thành tựu hàn lâm cụ thể).
Vậy là tôi đã trình bày sơ qua về cách đào tạo bác sĩ ở VN và các nước cũng như đề cập đến một số văn bằng tiến sĩ. Nay trở lại vấn đề đào tạo tiến sĩ ngành y VN dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Vì trong hệ thống XHCN nên trước đây VN cũng đào tạo Tiến sĩ (doctor nauk) và Phó Tiến sĩ (kandidat nauk). Phó Tiến sĩ Y học được đào tạo tại Trường đại học Y Hà Nội từ năm 1980 và Trường Đại học Y Dược TPHCM từ năm 1987. Sau 1998 thì không còn đào tạo Phó Tiến sĩ nữa và bắt đầu đào tạo Tiến sĩ Y học.
Lứa Phó Tiến sĩ trường Đại học Y Dược TPHCM đầu tiên (1987-1991) gồm Nguyễn Thanh Bảo (SBCK2, bộ môn Vi sinh) và Lê Văn Cường (SBCK3, bộ môn Giải phẫu). Cả 2 sau này đều là giáo sư chủ nhiệm bộ môn.
Câu chuyện TIẾN SĨ Y KHOA & TÔI
Tôi tuy đã rời khỏi trường Đại học Y Dược TPHCM từ năm 1990 nhưng có hứa với thầy hiệu trưởng Trương Công Trung là vẫn tiếp tục giảng dạy, làm việc ở bộ môn Giải phẫu bệnh như cũ mà không kèm theo lương bổng và tôi đã thực hiện đúng lời hứa đó. Hầu như ở trường ai cũng nghĩ là tôi vẫn còn công tác ở bộ môn. Khi du học Pháp về vào năm 1992 thì tôi biết được thông tin là trường có đào tạo hệ Phó Tiến sĩ ngắn hạn. Hệ này dành cho các bác sĩ đầu ngành, trình độ chuyên môn cao (tương đương với Phó Tiến sĩ (!) và một số điều kiện khác về bằng ngoại ngữ, chính trị, bài báo khoa học... Tôi đoán đây là cánh cửa mở cho các thầy cô, bác sĩ lâu năm có cơ hội lấy bằng Phó Tiến sĩ để đủ điều kiện xét phong giáo sư, phó giáo sư. Năm 1991 là đợt xét phong GS/PGS cuối cùng không cần điều kiện học vị Tiến sĩ, Phó Tiến sĩ. Bốn BS đầu tiên của chế độ cũ được phong Phó Giáo sư đợt này gồm các anh Văn Tần (ngoại tổng quát), Võ Thành Phụng (chấn thương chỉnh hình), Nguyễn Chấn Hùng (ung thư) và Trần Văn Bình (huyết học truyền máu). Tôi phân vân không biết là mình có nên nộp đơn xét tuyển không, phần vì nghĩ mình còn trẻ đâu phải BS đầu ngành, phần vì mới rời bỏ trường 2 năm trước! Thật ra thời điểm đó tôi ra trường đã 15 năm và có 2 bằng bác sĩ chuyên khoa cấp II Giải phẫu bệnh (GPB) và Chấn thương Chỉnh hình (CTCH). Tôi dọ hỏi thì nhiều thầy ủng hộ, chắc có lẽ họ thấy tôi vẫn chiều chiều vào bộ môn làm việc hiệu quả. Vậy là tôi nộp hồ sơ, trình đề cương nghiên cứu và được trúng tuyển. Theo qui định, nghiên cứu sinh hệ ngắn hạn tự mình nghiên cứu, viết luận án trong vòng 1 năm mà không có Thầy hướng dẫn như hệ dài hạn. Dù vậy trên bìa luận án tôi vẫn trân trọng ghi tên 2 thầy hướng dẫn là những người đã thương yêu, dìu dắt tôi: PGS Trần Phương Hạnh và PGS Võ Thành Phụng. Dù có một số trở ngại trong quá trình chuẩn bị bảo vệ nhưng buổi trình luận án của tôi gọn, nhẹ, như một buổi giao ban BV - theo lời của bạn Vũ Lê Chuyên SBCK3. Tôi cám ơn tấm lòng của GS Nguyễn Đình Hối, Hiệu trưởng kiêm Khoa trưởng Khoa Y đã đồng ý cho tôi làm nghiên cứu sinh hệ đặc biệt này và làm Chủ tịch Hội đồng giám khảo đánh giá luận án tiến sĩ của tôi. Thời gian sau, nhiều đàn anh lớn của trường và các bệnh viện trong đó có 4 BS CTCH cũng làm nghiên cứu sinh theo hệ ngắn hạn này.
Tôi là người đam mê học hành, truyền đạt kiến thức và âm thầm làm việc trong cả 2 chuyên ngành ở bệnh viện cũng như ở 2 trường Đại học Y Dược & YK Phạm Ngọc Thạch. Năng lượng tôi bỏ ra cho 1 tiết dạy bằng 2 giờ đứng mổ các ca khó. Sinh viên và học viên cảm nhận được điều đó. Luật Giáo dục 1998 ra đời khi VN muốn hội nhập với thế giới phương Tây nhưng văn bằng Phó Tiến sĩ thì “không giống ai”!. Sau nhiều tranh luận thì cuối cùng chính phủ và quốc hội chọn giải pháp là các TS đã được đào tạo ở các nước XHCN (trong đó có VN) được gọi là TS khoa học, các Phó TS được gọi là TS và chấm dứt việc đào tạo Phó TS trong nước, chỉ đào tạo TS thôi. Vậy là chỉ sau 1 đêm các Phó TS như tôi thức dậy thấy mình trở thành TS. Nhiều người gọi là “TS sau 1 đêm”! Nghe cũng nao nao lòng...Thật ra thì chỉ thay đổi về cách gọi, về văn bản chứ không đổi bằng tức vẫn giữ tấm bằng “Phó Tiến sĩ khoa học Y” phần tiếng Việt và “Doctor of Philosophy in Medicine” phần tiềng Anh. Đôi khi cái tham sân si nổi lên, tôi nghĩ hay là mình thi và học thành TS chính quy?! Ý niệm này khởi lên khi đọc lý lịch của bạn cùng tên ghi trên cuốn sách anh tặng về “Khoa học sáng tạo”: tiến sĩ (Liên xô năm...), tiến sĩ khoa học (Liên xô năm...). Tự nhủ mình đã có bằng Phó TS giải phẫu bệnh rồi, bây giờ nghiên cứu lấy thêm cái bằng TS chấn thương chỉnh hình nữa cũng là cái hay?! Nhưng nghĩ lại “Có thêm tấm bằng TS để làm gì”, “Được và mất cái gì”?. Có lẽ được cái danh nhưng sẽ mất cái gì?! Thôi thì có hay không thì mình vẫn vậy; ở BV hết lòng tìm cách cứu sống và giữ toàn vẹn tay chân của BN ung thư xương, chữa lành bệnh và giảm nỗi đau của bệnh nhân và thân nhân; ở trường mình cố gắng truyền thụ kiến thức và ngọn lửa yêu nghề, yêu người cho sinh viên là đủ rồi. “Biết đủ là đủ”, ngài Nguyễn Công Trứ đã dạy vậy. Lại nhớ lời Cha “Già néo đứt dây”. Vậy là bình tâm gạt bỏ “Cái tôi đáng ghét” của Pascal đi mà lo sống và làm việc theo thiên chức của mình: thầy thuốc và thầy giáo! Tôi động viên, tạo điều kiện, chỉ dẫn cho các bạn trẻ học nghiên cứu sinh (NCS) trở thành TS. Đây là một quá trình gian khổ, tuy qui định 3-4 năm nhưng thông thường mất 5-8 năm mới bảo vệ được luận án. Đa số các NCS đều nản lòng, nhiều khi không thấy lối ra, quá nhiều khó khăn trở ngại, nhiều người đã gục ngã bỏ cuộc. Động viên anh em, tôi tâm tình “Có đi, ắt đến. Đích dù gần, đường đi dễ nhưng nếu không bước đi thì không bao giờ tới. Đích dù xa, đường đi chưa có (yêu cầu của luận án TS là phải có điểm mới) nhưng nếu quyết tâm dấn thân thì các con đường sẽ mở ra và đến được đích”. Đôi khi bình dân hơn, tôi nói “Để đến đích, các bạn cứ chạy, vừa chạy vừa sắp hàng, chạy không được thì đi, đi hết nổi thì bò, lết... rồi cũng sẽ tới”. Nhân văn hơn, tôi khuyến khích “Trở thành TS, em sẽ có điều kiện hơn để giúp đỡ người khác, không chỉ cho bệnh nhân mà cho cả đàn em, học trò của mình, giúp đỡ hướng dẫn họ học lên...”. Quá trình trở thành TS tuy rất gian khổ khó khăn nhất là các chuyên ngành lâm sàng nhưng bù lại NCS đã rèn luyện bản lĩnh, học được rất nhiều điều từ chuyên môn đến “bên lề y khoa (paramédicale)”. Có được tấm bằng TSYK, cái chất BS đã thay đổi, cao hơn rất nhiều.
Tầm nhìn chiến lược, cách tuyển sinh, đào tạo TSYK đã thay đổi, đã khác rất nhiều so với trước đây. Ngày xưa phân biệt 2 hướng đào tạo: TS để nghiên cứu, giảng dạy ở trường và BS chuyên khoa thực hành điều trị ở BV nên chỉ tuyển NCS những BS có bằng Thạc sĩ. Rồi đến giai đoạn bớt phân biệt hơn thì tuyển NCS từ Thạc sĩ và BS chuyên khoa II. Và hiện nay thì mở rộng ra cho các BS giỏi, xuất sắc. Điều này có nghĩa là mục đích đào tạo TSYK đã thay đổi, không còn ưu tiên trở thành giảng viên (lecturer) đại học, nghiên cứu viên (researcher) viện nghiên cứu nữa mà đơn giản là thành tầng lớp BS tinh hoa, giỏi. TS là học vị cao nhất. Các TS BS có thể giảng dạy ở trường hay BS thực hành điều trị ở bệnh viện với chất lượng cao nhất, với chữ Tâm thiện lành (!). BV bên cạnh việc khám, điều trị bệnh cũng có nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Trở thành TS không phải chỉ là danh tiếng mà chủ yếu là phụng sự, góp cho đời, giúp cho người với chất lượng xứng với tầm cao- Tiến sĩ!
Văn chương kể cũng dông dài. Tôi xin khép lại tản mạn này bằng tâm niệm luôn ghi nhớ lời dạy của các Thầy!
LCD
09/10/25
(Viết đu trend tiến sĩ ngành y)