Thầy thuốc ưu tú – BS. Phó Đức Mẫn
(Phỏng dịch: The History of Cancer – American Cancer Society)
Nghiên
cứu ung thư là công việc mà nhiều thầy thuốc và nhà khoa học trên thế giới đã
đóng góp công sức với những khám phá về cơ thể học, sinh lý học, hóa học, dịch
tễ học, và rất nhiều chuyên ngành khoa học khác có liên hệ để đến ngày nay tạo
thành ngành ung bướu học. Những tiến bộ về kỹ thuật và sự gia tăng liên tục của
những kiến thức mới về bệnh ung thư đã làm cho ngành này trở thành một lãnh vực
phát triển nhanh nhất của nền Y học hiện đại.
A.
LỊCH SỬ
NGUYÊN SƠ CỦA UNG THƯ
1.
Định nghĩa ung thư
Bệnh
ung thư bắt đầu khi tế bào của một vùng cơ thể tăng trưởng vượt qua sự kiểm
soát của cơ thể đó. Có rất nhiều loại ung thư, nhưng tất cả đều khởi phát từ
việc phá rào kiểm soát tăng trưởng của các tế bào bất thường.
Ung
thư là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ hai ở Mỹ: Khoảng một nửa số đàn ông và
một phần ba số phụ nữ sẽ mắc phải ung thư trong cuộc đời họ. Ngày nay, hàng
triệu người đang sống với bệnh ung thư hoặc đã trải nghiệm qua căn bệnh này.
2.
Những mô tả cổ đại về ung thư
Suốt
trong lịch sử, bệnh ung thư đã được ghi nhận xảy đến ở con người và các thú
vật. Như vậy không có gì ngạc nhiên khi ngay từ thuở sơ khai của lịch sử, con
người đã ghi chép về căn bệnh này. Sự kiện hiển nhiên ngay từ buổi đầu là bệnh
ung thư được tìm thấy trên xương hóa thạch, trên xác ướp Ai Cập cổ, và trong
ghi chép của các cổ thư.
Sự
tăng trưởng gợi ý là một ung thư xương, tên khoa học: Osteosarcoma, đã được tìm
thấy trên xác ướp. Dấu tích hủy xương sọ do ung thư đầu cổ cũng đã được tìm
thấy.
Mô
tả của con người lâu đời nhất về ung thư (dù rằng thời đó chưa hề có từ ung
thư) được tìm thấy ở Ai Cập khoảng 3000 năm trước Công nguyên: đó là cổ thư
Edwin Smith, là bản sao một phần của sách cổ Ai Cập về ngoại khoa chấn thương.
Có 8 trường hợp bướu hoặc loét ở vú đã được đốt lấy đi bằng dụng cụ thích hợp.
Bài viết cũng ghi nhận về căn bệnh này là “không có cách chữa”.
3.
Nguồn gốc từ “ung thư”
Nguồn
gốc của từ “ung thư” được gán cho thầy thuốc Hy Lạp Hippocrates (460-370tr CN),
người được xem là ông tổ ngành y. Hippocrates dùng các từ “carcinos” và
“carcinoma” để mô tả loại bướu không loét và loại bướu loét. Theo tiếng Hy Lạp
thì các từ đó để chỉ con cua, có lẽ vì hình dạng của bướu với các lan tỏa giống
như các ngón tay gợi ý hình ảnh con cua tám cẳng hai càng! Thầy thuốc người La Mã
Celsus (28 – 50 sau CN) đã dịch từ Hy Lạp sang từ La Tinh là: cancer (cũng có
nghĩa là con cua). Galen (130 – 200 sau CN), một thầy thuốc Hy Lạp nổi tiếng
khác, dùng từ “oncos” (có nghĩa là sưng) để mô tả bướu này. Sự tương đồng về ý
tưởng – hình tượng con cua của Hippocrates và Celsus vẫn được dùng để mô tả các
bướu ác hay ung thư, còn từ mà Galen dùng thì ngày nay sử dụng để gọi tên ngành
khoa học nghiên cứu về ung thư là oncology, và gọi những người chuyên trị ung
thư là oncologist.
B.
UNG THƯ
QUA CÁC THẾ KỶ, TỪ THẾ KỶ 16 ĐẾN THẾ KỶ 18
Trong
thời kỳ Phục hưng bắt đầu từ thế kỷ 15, các thầy thuốc đã tìm tòi và hiểu biết
nhiều về cơ thể con người. Các nhà khoa học như Galileo, Newton bắt đầu áp dụng
những phương pháp khoa học và sau đó được ứng dụng vào nghiên cứu bệnh tật. W.
Harvey (1578 - 1657) mổ xác chết để khảo sát, nhờ đó hiểu được sự tuần hoàn của
máu qua trái tim và đi khắp cơ thể (1628), điều mà trước đó vẫn còn là một bí
ẩn.
Năm
1761, Giovanni Morgagni (1682 - 1771), ở Padua, Ý, đã thực hiện việc mà chưa ai
từng làm (nhưng ngày nay là việc làm thông thường của thầy thuốc ung thư) là mổ
tử thi để mô tả những bất thường tìm thấy trong cơ thể người bệnh có liên quan
đến căn bệnh. Việc làm này chính là nền tảng khoa học cho nghiên cứu ung thư.
Nhà
phẫu thuật nổi tiếng người Scotland là John Hunter (1728 - 1793) cho rằng một
vài ung thư có thể điều trị được bằng phẫu thuật, và ông đã mô tả để giúp cho
các phẫu thuật viên có cơ sở quyết định mổ loại ung thư nào: Nếu bướu không xâm
lấn vào mô lân cận và “lúc lắc” được thì không có gì là sai khi phải mổ lấy đi.
Một
thế kỷ sau đó, ngành tê-mê ra đời đã cho phép các nhà phẫu thuật phóng tay hơn;
từ đó đã phát triển ra nhiều loại phẫu thuật trị ung thư tỷ như phẫu thuật đoạn
nhũ tận gốc (radical mastectomy).
C.
UNG THƯ Ở
THẾ KỶ 19
Thế
kỷ 19 đã nhìn thấy sự ra đời của ngành ung bướu khoa học nhờ việc sử dụng kính
hiển vi để quan sát và nghiên cứu các mô bệnh. Rudolf Virchow (1821 - 1902),
người được xem là cha đẻ ngành bệnh học tế bào (cellular pathology), đã xây
dựng nền tảng cho ngành bệnh học hiện đại của ung thư. Tương tự như Morgagni đã
kết hợp quan sát mắt thường qua mổ tử thi với diễn tiến lâm sàng của bệnh ung
thư, Virchow đã liên kết việc khảo sát mô bệnh học dưới kính hiển vi
(microscopic pathology) với bệnh ung thư.
Phương
pháp này không chỉ cho phép hiểu biết rõ hơn về những tác hại của ung thư mà
còn hỗ trợ cho sự phát triển của ngành giải phẫu ung thư (cancer surgery). Các
mẫu mô của cơ thể được phẫu thuật viên mổ lấy ra nay đã được khảo sát và xác
định chính xác chẩn đoán của bệnh. Nhà bệnh học cũng có thể báo cho nhà phẫu
thuật biết là cuộc mổ đã lấy trọn khối bướu ung thư đi hay chưa.
D.
NHỮNG LÝ
THUYẾT ĐẦU TIỀN VỀ NGUYÊN NHÂN UNG THƯ
Từ
thời xa xưa, người thầy thuốc đã rất mù mờ rối trí về các nguyên nhân gây bệnh
ung thư. Người Ai Cập cổ thì cho đó là hình phạt của các thần linh.
1. Lý
thuyết thể dịch
Hippocrates
cho rằng cơ thể người ta có bốn loại thể dịch: máu – dịch tiết (phlegm) – mật
vàng và mật đen. Khi bốn loại thể dịch đó cân bằng thì con người khỏe mạnh bình
thường. Và người ta tin rằng khi có sự gia tăng hay sụt giảm của bất cứ loại
thể dịch nào thì sẽ sinh ra bệnh. Sự gia tăng của mật đen tại bất cứ nơi nào
trong cơ thể sẽ sinh ra bệnh ung thư ở nơi đó. Lý thuyết sinh ung này được
chuyển tiếp đến người La Mã, được Galen chấp nhận thông qua ghi chép trong các
bài giảng về y học của ông và trở thành khuôn mẫu bất khả tranh cãi trong suốt
thời kỳ Trung cổ kéo dài hơn 1300 năm. Trong thời kỳ này, việc nghiên cứu cơ
thể con người, bao gồm cả việc mổ xẻ tử thi bị nghiêm cấm bởi các lý do tôn
giáo nên đã hạn chế những tiến bộ của kiến thức y học.
2. Lý
thuyết về dịch lymph.
Trong
các lý thuyết nêu ra nhằm thay thế lý thuyết thể dịch về nguyên nhân sinh ung
có lý thuyết về dịch lymph (hay dịch bạch huyết). Sự sống được tin là do sự
luân chuyển liên tục và hài hòa của các loại thể dịch đi qua các bộ phận đặc
của cơ thể. Trong tất cả các loại thể dịch thì quan trọng nhất là máu và dịch
bạch huyết (lymph), một loại dịch trong, quan trọng tương đương với máu. Hai
ông Stahl và Hoffmann nêu lý thuyết là ung thư được sản sinh ra vì dịch bạch
huyết lên men và thoái hóa đưa đến thay đổi về độ đậm đặc, độ toan và độ kiềm.
Lý thuyết này nhanh chóng được nhiều người ủng hộ. John Hunter chấp nhận là
bướu phát triển từ dịch lymph liên tục luân chuyển trong cơ thể bởi máu.
3. Lý thuyết về chồi tân sinh hay mầm gốc
(blastema).
Năm 1838, nhà
bệnh học người Đức, Johannes Muller (1801 - 1858), chứng minh là bướu ung thư
được cấu tạo bởi tế bào chứ không phải là dịch lymph, nhưng ông lại tin là tế
bào ung thư không phát triển từ tế bào lành mà từ những chồi tân sinh hay mầm
gốc (blastema) ở giữa các mô bình thường của cơ thể. Học trò của ông là Rudolf
Virchow, nhà bệnh lý học nổi tiếng người Đức, sau đó xác định rằng tất cả các
tế bào – kể cả các tế bào ung thư – đều sinh ra từ các tế bào khác.
4. Lý
thuyết về sự kích thích mãn tính
Virchow
cho là kích thích mãn tính là nguyên nhân sinh bệnh ung thư, nhưng ông lại tin
tưởng sai lầm là “ung thư phát triển giống như một chất lỏng”. Trong thập niên
1860, nhà phẫu thuật người Đức là Karl Thiersch (1822 - 1895) cho rằng ung thư
di căn thông qua sự lan tràn của tế bào ung thư chứ không thông qua bất cứ loại
dịch nào.
5. Lý
thuyết về sang chấn hay chấn thương
Mặc
dù đã có những tiến bộ trong hiểu biết về ung thư, ở những năm cuối 1800 sang
đến thập kỷ 1920 thì vẫn có một số người tin rằng chấn thương là nguồn gốc sinh
ung thư. Niềm tin này không thay đổi mặc dù qua thực nghiệm trên thú vật đã
chứng minh lý thuyết này là không đúng.
6. Lý
thuyết do bệnh lây nhiễm
Zacutus
Lusitani (1575 - 1642) và Nicholas Tulp (1593 - 1674), hai thầy thuốc ở Hà Lan,
kết luận gần như cùng lúc là bệnh ung thư có tính lây nhiễm. Hai ông đã cùng
kết luận như thế sau khi ghi nhận nhiều bệnh nhân mắc ung thư vú sống chung
cùng nhà. Lusitani và Tulp lần lượt công bố lý thuyết lây nhiễm vào năm 1649 và
1652. Hai ông cũng đề nghị bệnh nhân ung thư nên được cách ly, tốt nhất xa
ngoài các tỉnh, thành để phòng tránh sự lây nhiễm. Trong thế kỷ 17 và 18 có
những người đã tin là bệnh ung thư có tính lây nhiễm. Thật vậy, bệnh viện ung
thư đầu tiên của Pháp, năm 1779 đã bị buộc phải di dời ra ngoài thành phố. Ngày
nay, chúng ta đã biết là bản thân bệnh ung thư không lây nhiễm, thế nhưng một
vài loại virut, vi khuẩn hay ký sinh trùng có thể làm gia tăng nguy cơ mắc ung
thư ở người.
E.
NHỮNG
HIỂU BIẾT HIỆN ĐẠI VỀ NGUYÊN NHÂN UNG THƯ
1. Sinh
ung từ virut và các chất sinh ung hóa học
Năm
1915, Katsusaburo Yamagiwa (1863 - 1930) và Koichi Ichikawa (1888 - 1948), hai
nhà bệnh học người Nhật của Viện Đại học Tokyo, lần đầu tiên gây ra ung thư
trên thú vật thí nghiệm bằng cách phết chất hắc ín (nhựa đường) lên da thỏ. Hơn
150 năm qua đi kể từ khi người thầy thuốc thành London là John Hill cho rằng
hút thuốc lá là một nguồn sinh ung. Rồi nhiều năm nữa lại qua đi cho đến một
ngày thuốc lá được “tái phát hiện” là nguồn sinh ung nguy hại nhất trong tất cả
các chất sinh ung mà con người biết được.
Ngày
nay, người ta công nhận và tránh xa nhiều chất đặc hiệu có thể gây bệnh ung
thư: chất nhựa than đá (coal tars) cùng những phụ chất (như chất benzene), một
vài chất hydrocarbon, chất aniline (bào chế thuốc nhuộm), asbestos (chất khoáng
dạng sợi dùng trong xây dựng để chống nắng, nóng) và nhiều chất khác nữa. Các
bức xạ iôn – hóa từ nhiều nguồn khác nhau, kể cả ánh sáng mặt trời cũng được
biết là có tính sinh ung. Để đảm bảo an toàn cho người dân thường, nhiều chính
quyền đã ra quy định về định mức an toàn chuẩn cho nhiều hợp chất, bao gồm benzene,
asbestos, hydrocarbon trong không khí, arsenic trong nước uống, và các chất
phóng xạ.
Năm
1911, bác sĩ Peyton Rous (1879 - 1970) kiêm nhà virut học người Mỹ thuộc Viện
Rockefeller – New York đã mô tả một bệnh ung thư ở gà gây nên bởi virut, về sau
được gọi là bệnh Rous Sarcoma. Với công trình này, năm 1968 Rous nhận giải
thưởng Nobel về Y học. Ngày nay nhiều loại virut được nhận diện có liên quan đến
ung thư ở người, thí dụ như:
§
Nhiễm khuẩn lâu dài với virut viêm gan B và C có
thể gây nên ung thư gan
§
Một trong những loại virut bệnh mụn rộp (Herpes
virus) là con virut Epstein-Barr, tác nhân gây bệnh Infectious Mononucleosis có
liên hệ với bệnh ung thư mũi họng và bệnh ung thư hạch bạch huyết không phải
dạng Hodgkin (non-Hodgkin’s lymphoma)
§
Những người mắc bệnh do virut làm yếu hệ miễn
dịch (HIV) có nguy cơ cao mắc một số
bệnh ung thư, đặc biệt là bệnh Kaposi Sarcoma và bệnh lymphoma không phải dạng Hodgkin.
§
Các virut sinh u nhú ở người (HPV) có liên hệ
với nhiều loại ung thư, đặc biệt là ung thư cổ tử cung, âm đạo, hậu môn và
dương vật. Một vài loại ung thư đầu và cổ (thường là lưỡi và hạch hạnh nhân hay
amiđan) có liên hệ với các virut nguy hiểm cũng thuộc nhóm HPV. Ngày nay đã có
nhiều loại thuốc chủng để phòng ngừa lây nhiễm các nhóm HPV.
Tính đến năm
2014, Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung thư (IARC) thuộc Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) đã nhận diện trên 100 chất sinh ung hóa học, vật lý và sinh học. Nhiều tổ
chức khoa học thế giới đã tìm ra những nguyên nhân sinh ung trước cả những hiểu
biết của các nhà khoa học về sự phát triển của bệnh ung thư. Ngày nay, những
nghiên cứu đã khám phá nhiều chất sinh ung mới, giải thích cách nào chúng gây
nên ung thư và đề xuất phương thức phòng chống.
Từ giữa thế kỷ
20, các nhà khoa học đã được trang bị máy móc dụng cụ cần thiết để nghiên cứu
một số vấn đề phức tạp về hóa học và sinh học còn chưa được sáng tỏ. James
Watson (1928 - ) và Francis Crick (1916 - 2004) đã khám phá ra cấu trúc hóa học
chính xác của DNA – cấu trúc cơ bản của gen – và hai ông đã được nhận giải
thưởng Nobel Y học năm 1962.
DNA đã được xem
là căn bản của mã di truyền và có chức năng đưa ra các lệnh cho toàn bộ các tế
bào. Sau khi đã học được cách giải bộ mã di truyền này, các nhà khoa học có thể
hiểu được hoạt động của gen và bằng cách nào mà nó có thể bị thương tổn bởi các
đột biến di truyền (thay đổi hoặc có lỗi ở gen). Những kỹ thuật tiên tiến về
hóa học và sinh học đã giúp giải thích nhiều câu hỏi phức tạp về bệnh lý ung
thư.
Các nhà khoa học
bây giờ đã hiểu là ung thư có thể gây nên bởi các chất hóa học, phóng xạ và
virut, và hình như đôi khi bệnh ung thư có tính di truyền (hoặc lưu truyền)
trong gia đình. Nhưng một khi các hiểu biết về DNA và gen càng ngày càng rõ
ràng thì họ lại học được là chính những hư hoại của DNA bởi các chất hóa học và
phóng xạ hay bởi sự xâm nhập của một chuỗi DNA do virut sản sinh thường đã chủ
động làm sinh ra bệnh ung thư. Và việc mô tả và định vị chính xác điểm hư hoại
trên một gen nào đó là ở trong tầm tay.
Các nhà khoa học
tìm ra là đôi khi các gen hư hỏng mang tính di truyền, và đôi khi những gen di
truyền này bị hư hỏng ở các điểm mà một vài loại hóa chất cũng có thể gây
thương tổn. Nói cách khác đa số các chất sinh ra ung thư (carcinogens) gây nên
thương tổn di truyền (đột biến gen): Điều đó rất giống như đột biến gen có thể
di truyền và tạo thành những ung thư cùng loại nếu càng nhiều đột biến gen được
đưa thêm vào.
Không cần biết
cách nào mà đột biến đầu tiên xuất hiện (bẩm sinh hay tự phát), các tế bào được
tăng trưởng từ tế bào đột biến sẽ sản sinh ra những nhóm tế bào bất thường
(được gọi là dòng tế bào – clones – hoặc là bản sao của tế bào bất thường). Các
dòng tế bào đột biến tiến triển với thời gian thành nhiều dòng tế bào ác tính,
và cứ thế ung thư tiến triển bởi nhiều gen bị tổn thương và gen bị đột biến. Sự
khác biệt lớn lao giữa các mô bình thường với mô ung thư là những tế bào bình
thường mang DNA hư hoại thì chết đi, còn tế bào ung thư mang DNA hư hoại thì
không chết. Việc khám phá ra sự khác biệt then chốt trên lý giải nhiều câu hỏi
đã gây rối trí các nhà khoa học trong nhiều năm trước.
2. Các
gen sinh ung và các gen khóa/ ức chế bướu
Trong
thập niên 1970, các nhà khoa học khám phá ra hai nhóm hay họ gen đặc biệt quan
trọng có liên quan đến ung thư: các gen sinh ung và các gen ức chế bướu.
Gen
sinh ung (oncogenes): Các gen này làm cho tế bào tăng trưởng mất kiểm soát và
trở thành tế bào ung thư. Chúng được hình thành bởi thay đổi hay đột biến ở vài
gen bình thường của tế bào nên gọi là gen tiền sinh ung (proto - oncogenes).
Gen tiền sinh ung là các gen mà bình thường tham dự vào việc kiểm soát tế bào
phân chia như thế nào và vào độ biệt hóa của tế bào mới (độ phát triển thành
chức năng đặc trưng của tế bào trong cơ thể).
Gen
ức chế bướu (tumor suppressor genes): đó là các gen bình thường làm chậm sự
phân chia tế bào, sửa chữa các sai lệch của DNA và báo cho tế bào biết khi nào
thì chết (cơ chế này được gọi là cái chết được lập trình của tế bào - apoptosis).
Khi gen ức chế bướu không hoạt động tốt, các tế bào tăng trưởng mất kiểm soát,
và từ đó sinh ra ung thư.
Sẽ dễ hiểu hơn
nếu ta xem tế bào giống như cái xe ô-tô. Để nó vận hành trôi chảy thì phải có
cách kiểm soát nó chạy nhanh chậm như thế nào. Một gen tiền sinh ung giống như
bàn đạp ga – nó giúp cho tế bào tăng trưởng và phân chia. Một gen sinh ung có
thể so sánh với bàn đạp ga bị kẹt dính làm cho tế bào tăng trưởng và phân chia
mất kiểm soát. Một gen ức chế bướu thì giống như bàn đạp thắng của xe ô-tô,
bình thường nó không cho phép tế bào phân chia quá nhanh. Khi có sự sai lệch
đối với gen, ví dụ như một đột biến gen, khiến cho nó ngưng hoạt động – giống
như xe mất thắng – thì sự phân chia tế bào sẽ không được kiểm soát nữa.
Các nhà nghiên
cứu y học đã dần dần nhận diện được các gen sinh ung, các gen ức chế bướu bị
làm tổn thương bởi hóa chất và bởi bức xạ; và một khi các gen bị tổn thương đó
được di truyền thì nó sẽ dẫn đến ung thư. Ví dụ như trong thập niên 1990 khám
phá ra hai gen gây vài loại ung thư vú: gen BRCA1 và BRCA2, là một bước tiến bộ
mới vì có thể sử dụng những gen này để tìm ra những người có nguy cao mắc bệnh
ung thư vú.
Người ta đã khám
phá ra rằng nhiều gen khác có mối liên hệ với những bệnh ung thư di truyền (lưu
truyền) trong gia đình, như là các ung thư đại tràng, trực tràng, thận, buồng
trứng, tuyến giáp, tụy tạng, và bướu hắc tố ở da. Ung thư di truyền trong gia
đình không thường gặp như ung thư phát triển tự nhiên (là ung thư gây nên bởi
hư hoại DNA khởi phát trong cuộc sống của người đó). Ung thư có mối liên hệ di
truyền chỉ có tỷ lệ ít hơn 15% của tất cả các ung thư. Thế nhưng việc hiểu rõ
nhóm ung thư này cũng quan trọng vì với những nghiên cứu tiếp theo về di truyền
thì ta có thể tìm ra thêm nhiều nhóm người nữa có nguy cơ cao mắc ung thư.
Khi mà các nhà
nghiên cứu nhận thức được tầm quan trọng của những biến đổi di truyền đặc trưng
trong ung thư, họ sẽ sớm tiến hành phát triển các mô thức điều trị nhắm đích
(thuốc hoặc hóa chất khác có tác dụng tranh chỗ với các phân tử đặc trưng) để
khắc phục các hậu quả của những biến đổi này tác động lên gen ức chế bướu và
gen sinh ung.
F.
LỊCH SỬ
DỊCH TỄ HỌC UNG THƯ
Trong
thế kỷ 18 có ba nhận định khoa học quan trọng khai phóng lãnh vực dịch tễ học
ung thư, ngành khoa học nghiên cứu các nguyên nhân, sự phân bố và việc kiểm
soát bệnh ung thư.
o Năm
1713, thầy thuốc người Ý là Bernardino Ramazzini (1633 - 1714) ghi nhận sự vắng
mặt “ảo” của ung thư cổ tử cung cùng với tần suất tương đối cao của ung thư vú
ở các nữ tu; và ông lấy làm lạ tự hỏi phải chăng đây có mối liên hệ với lối
sống độc thân của các nữ tu? Nhận xét này là một bước tiến quan trọng hướng đến
việc nhận diện và hiểu rõ tầm quan trọng của nội tiết tố và các bệnh lây nhiễm
qua đường tình dục với nguy cơ mắc ung thư.
o Năm
1775, Percival Pott (1714 - 1788) của bệnh viện Bartholomew ở London đã mô tả
một bệnh ung thư do nghề nghiệp ở những người làm nghề thông ống khói: đó là
bệnh ung thư da bìu gây nên bởi chất bồ hóng bám đọng vào các xếp nếp của da
bìu. Khảo cứu của ông đã kéo theo nhiều nghiên cứu khác nhận diện một số phơi
nhiễm nghề nghiệp gây nguy cơ sinh ung để cung cấp cho y tế cộng đồng những
biện pháp làm giảm nguy cơ sinh ung do nghề nghiệp.
o Thomas
Venner ở London là người đầu tiên đã cảnh báo về những nguy hiểm do hút thuốc
lá trên tạp chí Via Recta của ông từ năm 1620. Ông đã viết: “Lạm dụng thuốc lá
gây nên tổn thương não và mắt, làm chân tay run rẩy và làm mệt tim”. Mãi 150
năm sau, vào năm 1761, chỉ vài thập kỷ sau khi việc hút thuốc lá để vui chơi
giải trí trở nên phổ biến ở London, John Hill đã viết cuốn sách tựa đề: Cảnh
báo về việc lạm dụng chất Snuff (Snuff là lá thuốc lá chế biến thành bột để hít
bằng mũi). Các báo cáo đầu tiên liên kết thuốc lá với ung thư đã làm tiền đề
cho những nghiên cứu về dịch tễ học trong nhiều năm sau đó (thập niên 1950 -
1960) cho thấy hút thuốc lá dẫn đến ung thư phổi (báo cáo của Hội Ngoại Khoa
Tổng Quát của Mỹ năm 1964: Hút Thuốc Lá và Sức Khỏe).
Các
nhà dịch tễ học tiếp tục tìm kiếm thêm các yếu tố có thể gây ung thư (giống như
việc hút thuốc lá, như béo phì, tia cực tím) cũng như các việc giúp phòng chống
ung thư (thể dục thể thao, chế độ ăn lành mạnh). Công cuộc khảo cứu này cung
cấp những điều thực tiễn giúp ngành Y tế công cộng hướng dẫn người dân thường
thông qua những khuyến cáo hoặc điều hòa sinh hoạt cần thiết.
Khi
mà các nhà sinh học phân tử tìm hiểu sâu hơn về các yếu tố sinh ung hoặc phòng
chống ung thư thì thông tin đạt được sẽ dùng cho nghiên cứu về dịch tễ học phân
tử: Đó là nghiên cứu những tương tác giữa gen và các yếu tố ngoại lai.
G.
LỊCH SỬ
CỦA TẦM SOÁT VÀ PHÁT HIỆN SỚM UNG THƯ
Công
việc tầm soát (rà tìm) dựa vào các khám nghiệm lâm sàng, cận lâm sàng và các
loại thử nghiệm khác để tìm ra một căn bệnh – như là bệnh ung thư – trên người
khỏe mạnh không có triệu chứng. Thử nghiệm đầu tiên được sử dụng tầm soát ung
thư là “Thử nghiệm Pap – Pap test”. Thử nghiệm này được George Papanicolaou
(1883 - 1962) triển khai lúc đầu như một phương pháp nghiên cứu tìm hiểu rõ về
chu kỳ kinh nguyệt. Papanicolaou nhanh chóng nhận thấy tiềm năng phát hiện sớm
ung thư cổ tử cung của thử nghiệm này và đã báo cáo giải trình kết quả nghiên
cứu của ông vào năm 1923. Lúc đầu đa số các thầy thuốc tỏ ra hoài nghi, và phải
mãi đến thập kỷ 1960 Hiệp Hội Ung Thư Mỹ (ACS) khuyến khích sử dụng thử nghiệm này
thì Pap test mới được phổ biến rộng rãi. Từ thời điểm đó trở về sau, người ta
ghi nhận tử suất do bệnh ung thư cổ tử cung tại Mỹ giảm khoảng 70%.
Kỹ
thuật mới chụp nhũ ảnh phát triển vào cuối thập niên 1960 được Hiệp Hội Ung Thư
Mỹ chính thức khuyến cáo sử dụng tầm soát ung thư vú từ năm 1976.
Hiệp
Hội Ung Thư Mỹ có phát hành những hướng dẫn cơ bản bao gồm các phương pháp phát
hiện sớm các loại ung thư cổ tử cung, ung thư vú, ung thư đại trực tràng, nội
mạc tử cung, phổi và tiền liệt tuyến; cùng với việc theo dõi định kỳ các bệnh
ung thư theo phái tính và độ tuổi, có thể bao gồm các xét nghiệm đối với các
loại bệnh ung thư tuyến giáp, ung thư xoang miệng, ung thư da, ung thư hạch
bạch huyết, tinh hoàn và ung thư buồng trứng.
H.
THẾ KỶ 21
VÀ NHỮNG TIẾN BỘ TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
1. Phẫu
trị
Những thầy thuốc
và những nhà ngoại khoa từ thượng cổ thời đại đã biết bệnh ung thư có thể tái
phát sau khi đã được mổ cắt bỏ. Celsus, thầy thuốc người La Mã đã viết: “Sau
khi được mổ lấy đi, ngay lúc sẹo mổ hình thành thì bệnh đã có thể trở lại”.
Galen,
thầy thuốc Hy Lạp ở thế kỷ thứ 2, nổi danh là bậc thầy ngành Y với các trước
tác về y học của ông được lưu truyền suốt hơn ngàn năm, có quan điểm về bệnh
ung thư giống như Hippocrates. Ông cho rằng bệnh nhân khi đã được chẩn đoán bị
ung thư là không thể chữa khỏi được. Quan điểm này đã là mô hình mẫu cho các
thế hệ thầy thuốc về điều trị và chăm sóc bệnh nhân ung thư trong nhiều thế kỷ.
Mặc
dù Y học đã có tiến bộ và phát triển trong một số nền văn minh cổ đại nhưng tiến
bộ về điều trị ung thư thì rất ít oi. Việc tiếp cận căn bệnh này phần lớn vẫn
theo lối mòn của Hippocrates và Galen. Ngoài một vài dị biệt nhỏ lẻ thì việc
tin tưởng rằng bệnh ung thư không thể chữa khỏi vẫn tồn tại đến tận thế kỷ 21.
Điều này kích động nỗi sợ hãi của con người đối với căn bệnh này. Thậm chí ngày
nay, một số người vẫn cho là ung thư không chữa được nên chần chờ trì hoãn việc
đi khám chuyên khoa và để trôi qua thời điểm tốt nhất chữa khỏi căn bệnh của
mình. Thầy thuốc cổ đại cho rằng ung thư một khi đã tiến xa thì không thể chữa
khỏi và ung thư nếu mổ lấy đi sẽ còn nguy hiểm hơn là không làm gì cả. Galen có
viết về chăm sóc ung thư vú sau mổ lấy trọn khối bướu ở một giai đoạn sớm. Phẫu
trị thời đó thật thô sơ với nhiều biến chứng trong đó quan trọng nhất là chảy
máu, mất máu. Mãi đến thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20 các biến chứng đó mới chấm
dứt nhờ có những tiến bộ cơ bản về ngoại khoa tổng quát và ngoại khoa ung thư.
Trước
sự phát hiện ra các loại thuốc tê – mê đã có nhiều phẫu thuật viên nổi tiếng.
John Hunter (1728 - 1793), Astley Cooper (1768 - 1841) và John Warren (1753 -
1815) là những thầy thuốc ngoại khoa sau cùng đón nhận sự cổ súy về kỹ năng mổ
xẻ chính xác và nhanh lẹ của đại phẫu sư. Kể từ năm 1846 trở đi khi mà ngành tê
– mê đã sẵn sàng với những tiến bộ nhanh chóng thì thế kỷ kế tiếp được tôn vinh
là “Thế kỷ của những nhà phẫu thuật”.
Ba
nhà phẫu thuật tiên phong đóng góp cho khoa học kiêm nghệ thuật của Ngoại khoa
ung thư là Theodor Billroth (1829 - 1894) ở Đức, William Handley (1872 - 1962)
ở Anh và William Halsted (1852 - 1922) ở Mỹ với chỉ định “phẫu thuật ung thư”
đối với bướu ác ở một vùng cơ thể: mổ lấy trọn khối bướu và các hạch bạch huyết
đi kèm theo.
William
S. Halsted, giáo sư ngoại khoa tại Đại học John Hopkins, phát triển phẫu thuật
đoạn nhũ tận gốc vào thập niên cuối thế kỷ 19. Kỹ thuật của ông dựa một phần
vào quan điểm của William S. Handley, nhà ngoại khoa thành London, Anh Quốc.
Handley tin là ung thư lan tràn đi từ bướu nguyên phát. (Quan điểm chung về
phẫu thuật đoạn nhũ tận gốc có thể trả về cho Lorenz Heister (1683 - 1758),
phẫu thuật viên người Đức. Heister đã viết những ý tưởng của ông về phẫu thuật
đoạn nhũ và cắt rộng một mảng tuyến vú mang bướu trong cuốn sách của ông tựa đề
“Chirurgie”, xuất bản năm 1719). Halsted không tin là ung thư lan tràn bằng
đường máu. Và ông tin phẫu thuật tại chỗ đúng cách lấy trọn khối ung thư thì có
thể chữa khỏi bệnh. Nếu về sau ung thư có thể xuất hiện ở một vị trí khác trên
cơ thể thì là do một cơ chế riêng. Niềm tin này giúp ông hoàn chỉnh kỹ thuật
đoạn nhũ tận gốc, và đã trở thành kỹ thuật cơ bản cho Phẫu trị ung thư trong
gần một thế kỷ. Mãi đến thập niên 1970, những công trình nghiên cứu ca – chứng
đã chứng minh là phẫu thuật ít rộng lớn hơn vẫn cho kết quả tốt tương đương cho
phần lớn phụ nữ bị ung thư vú. Ngày nay, kỹ thuật đoạn nhũ tận gốc hầu như
không còn ai thực hiện, và ngay cả đoạn nhũ tận gốc biến đổi cũng ít được làm
hơn trước. Bây giờ đa số phụ nữ mắc ung thư vú được mổ “cắt rộng bướu nguyên
phát” (lumpectomy) rồi sau đó phối hợp với xạ trị.
Cùng
thời điểm mà Halsted và Handley phát triển các loại phẫu thuật tận gốc thì có
những nhà ngoại khoa khác đã nêu câu hỏi: Điều gì quyết định là cơ quan nào sẽ
bị ung thư lan tràn đến? Stephen Paget (1855 - 1926), phẫu thuật viên người Anh
có kết luận: tế bào ung thư lan tràn theo đường máu đến tất cả các cơ quan
trong cơ thể, nhưng chỉ có thể phát triển ở một vài cơ quan thôi. Bằng một lý
luận xuất sắc về lô-gich học ông nêu ra sự tương đồng giữa di căn ung thư và sự
phát triển của các hạt hoa được gió tung bay đi khắp hướng, nhưng sau đó chỉ
sống và nảy mầm trên vùng đất thích hợp (“seed and soil”).
Kết
luận này của Paget là một giả thuyết đúng đắn và tinh tế nhưng chỉ được các kỹ
thuật tân tiến về sinh học tế bào và sinh học phân tử xác minh…mãi một trăm năm
sau. Sau này, sự hiểu biết về cơ chế của di căn ung thư đã trở thành yếu tố
khóa xác nhận các giới hạn của ngoại khoa ung thư. Nhưng đồng thời nhờ vậy đã
thúc đẩy các thầy thuốc tìm tòi các mô thức điều trị khác sử dụng sau phẫu trị
để tìm diệt những tế bào ung thư lan tràn trong cơ thể người bệnh. Đồng thời
nhờ vậy họ có thể thực hiện phẫu thuật ít tàn phá hơn để điều trị nhiều loại
ung thư. Đến nay thì những mô thức mới đó còn có thể sử dụng hỗ trợ trước phẫu
trị.
Ở
những thập niên cuối thế kỷ 20, các nhà ngoại khoa đã phát triển được nhiều
thao tác kỹ thuật tốt hơn nhằm giảm đến tối thiểu các mô lành phải lấy đi khi
mổ cắt bướu ung thư. Giống như xu hướng từ đoạn nhũ đến chỉ cắt rộng bướu, tiến
bộ này cũng được chia sẻ khi mổ cắt bỏ bướu xương hay bướu phần mềm ở tay, chân
mà không cần phải đoạn chi cho một số trường hợp chọn lọc; hoặc là không làm
hậu môn nhân tạo vĩnh viễn cho một số lớn trường hợp ung thư trực tràng, bảo
tồn được cơ vòng hậu môn và sự bài tiết tự nhiên. Sự phát triển tiến bộ như thế
không chỉ tùy thuộc vào hiểu biết rõ hơn về căn bệnh và vào các dụng cụ mổ tinh
tế hơn mà còn tùy thuộc vào cả sự phối hợp phẫu trị với hóa trị và / với xạ
trị.
Cho
đến cuối thế kỷ 20, chẩn đoán ung thư thường dựa vào “phẫu thuật thám sát”: Mổ
vào xoang bụng, lồng ngực để phẫu thuật viên có thể lấy mẫu mô bướu làm xét
nghiệm ung thư. Bắt đầu từ thập niên 1970, những tiến bộ của các kỹ thuật hình
ảnh học như siêu âm, chụp điện toán cắt lớp (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI) và
chụp xạ hình điện toán với hạt positron (PET) đã thay thế phẫu thuật thám sát,
chỉ cần sự hướng dẫn qua màn huỳnh quang để chọc kim đúng vào khối bướu làm
sinh thiết.
Ngày
nay, người thầy thuốc dùng kỹ thuật ống soi mềm với dây thủy tinh dẫn nguồn sáng
hoặc đưa máy quay phim vi ti vào trong cơ thể để quan sát. Phẫu thuật viên mổ
với những dụng cụ đặc biệt qua những ống nhỏ xuyên qua da bằng vết cắt nhỏ xíu.
Những dụng cụ đặc chủng giúp quan sát và thao tác mổ trong xoang bụng hay lồng
ngực (phẫu thuật nội soi bụng, ngực). Với những dụng cụ tương tự và ống nội
soi, người thầy thuốc đã mổ cắt lấy đi vài loại bướu trong thực quản, trong đại
tràng hay trong bọng đái bằng cách mượn đường đi qua các lỗ tự nhiên của cơ thể
như miệng, hậu môn, lỗ tiểu.
Những
phương cách ít sang chấn nhằm tiêu hủy khối bướu mà không phải mổ cắt đi đang
được nghiên cứu hoặc đang được sử dụng. Phẫu thuật đông lạnh sử dụng chất ni-tơ
lỏng hoặc loại máy hình que làm đông lạnh và giết chết khối bướu. Lasers cũng
được sử dụng “cắt” vào mô thay lưỡi dao mổ, đốt và tiêu hủy các ung thư ở cổ tử
cung, thanh quản, gan, trực tràng, da và nhiều cơ quan khác. Phẫu thuật bằng
sóng siêu tần (Radiofrequency ablation - RFA) dùng máy có ăng-ten truyền sóng
siêu tần đặt vào bướu để đốt cháy bướu.
2. Điều
trị nội tiết tố
Một
khám phá khác của thế kỷ 19 góp phần tạo dựng nền tảng cho một phương pháp quan
trọng trong phòng ngừa và điều trị ung thư: Điều trị nội tiết tố.
George
Thomas Beatson (1848 - 1933), tốt nghiệp Đại học Edinburgh năm 1874, đã lưu tâm
đến mối liên hệ giữa buồng trứng và sự tạo sữa của tuyến vú. Năm 1878 ông khám
phá ra tuyến sữa của thỏ ngưng tiết ra sữa khi ông cắt bỏ đi hai buồng trứng.
Ông mô tả kết quả này trong báo cáo ở Hội Nội – Ngoại khoa Edinburgh năm 1896:
“Tôi nhận thấy rất thú vị là một cơ quan kiểm soát và chỉ huy sự bài tiết của
một cơ quan khác”.
Khi
nhận ra tuyến vú được “kiểm soát” bởi buồng trứng, Beatson quyết định thử
nghiệm thêm bằng cách cắt bỏ hai buồng trứng ở bệnh nhân mắc ung thư vú tiến
xa. Ông cũng nghi ngờ là “buồng trứng có thể là nguyên nhân kích thích tạo nên
ung thư tuyến vú”. Và ông đã khám phá ra tác dụng kích thích của nội tiết tố nữ
của buồng trứng đối với ung thư tuyến vú, nhất là trước khi chính bản thân của
nội tiết tố đó chưa được khoa học tìm ra (đó là estrogen). Khám phá của Beatson
là nền tảng của liệu pháp nội tiết tố ngày nay, tiêu biểu là Tamoxifen và các
chất ức chế men aromatase được dùng để điều trị hoặc phòng ngừa ung thư vú.
Nửa
thế kỷ sau khám phá của Beatson, Charles B. Huggins (1901 - 1997) – bác sĩ
chuyên khoa niệu của Đại học Chicago – báo cáo sự thoái triển ngoạn mục của di
căn của ung thư tiền liệt tuyến sau khi hai tinh hoàn được cắt bỏ đi. Công
trình này đem lại cho ông giải thưởng Nobel Y học năm 1966. Về sau, thuốc ức chế
nội tiết tố nam được phát hiện có hiệu quả điều trị ung thư tiền liệt tuyến.
Nhiều
nhóm thuốc mới – như là thuốc ức chế men aromataz, luteinizing – hormone
releasing – hormone (LHRH) cùng với các chất đồng đẳng và các chất ức chế và
còn với nhiều thuốc khác nữa, đã thay đổi mạnh mẽ cách mà ung thư vú và ung thư
tiền liệt tuyến được điều trị. Các nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn cách thức nội
tiết tố tác động đến sự phát triển của ung thư đã dẫn đến các tiến bộ trong
việc phát triển những loại thuốc mới để điều trị ung thư, đồng thời cũng giúp
các nhà nghiên cứu hướng về những phương thức mới trong sử dụng thuốc nhằm giảm
thiểu nguy cơ sinh ung ở tuyến vú và tuyến tiền liệt.
3. Xạ
trị
Năm 1896, Wilhem
Conrad Roentgen (1845 - 1923), giáo sư vật lý người Đức, đã trình bày một báo
cáo độc đáo tựa đề là: “Về một loại tia mới”. Roentgen gọi là “tia X”, “x” là
ký hiệu của ẩn số trong thuật ngữ toán học. Bài báo cáo đã nhanh chóng gây
tiếng vang toàn cầu. Chỉ trong vài tháng nhiều hệ thống máy được chế tạo ra để
sử dụng tia X cho chẩn đoán bệnh; và chỉ sau ba năm tia phóng xạ đã được dùng
để điều trị ung thư.
Năm
1901, Roentgen đã nhận giải thưởng Nobel đầu tiên về Vật lý. Xạ trị khởi nghiệp
với Radium cho điều trị và với các máy sử dụng tia X liều thấp cho chẩn đoán. Tại
nước Pháp, một bước đột phá quan trọng xảy ra khi người ta khám phá ra việc sử
dụng một liều phóng xạ mỗi ngày trong nhiều tuần đã giúp gia tăng chữa khỏi ung
thư. Nhiều phương thức và nhiều loại máy móc xạ trị đã được phát triển rầm rộ
từ dạo đó.
Bước
sang đầu thế kỷ 20, ngay sau khi phóng xạ bắt đầu được dùng để chẩn đoán và
điều trị ung thư, người ta lại khám phá thêm là phóng xạ cũng gây ra ung thư
song song với điều trị ung thư. Những người đầu tiên làm trong ngành quang
tuyến đã dùng da của cánh tay mình để thử độ mạnh của liều phóng xạ phát ra từ
máy, mục đích để tìm ra liều chỉ gây một đốm ửng đỏ da (erythema dose): Đó là
liều hằng ngày cho một lần xạ trị. Sẽ không ngạc nhiên khi nhiều người trong nhóm
nhân viên này về sau mắc phải bệnh ung thư máu do việc phơi nhiễm liên tục với
tia phóng xạ.
Những tiến bộ về
vật lý phóng xạ và kỹ thuật vi tính ở phần tư cuối thế kỷ 20 đã hỗ trợ thao tác
các bức xạ chuẩn hơn. Xạ trị quy ước (Conformal radiation therapy: CRT) sử dụng
hình ảnh cắt lớp điện toán, rồi đến những máy vi tính đặc biệt để vẽ bản đồ
thật chính xác vị trí của ung thư trong không gian ba chiều. Bệnh nhân được lắp
ráp vào người một khuôn bằng nhựa dẻo để giữ cho bộ phận cơ thể lúc nào cũng ở
vị trí cố định cho mỗi lần xạ trị. Chùm tia xạ được tính toán phù hợp với mô
hình của bướu và phóng tia xạ vào khối bướu theo nhiều trục khác nhau. Xạ trị -
điều chỉnh cường độ (Intensity – modulated radiation therapy: IMRT) cũng giống
như xạ trị quy ước (CRT), nhưng dần dần với những chùm tia photon nhắm vào bướu
theo nhiều hướng khác nhau thì có thể điều chỉnh được cường độ của chùm tia.
Việc này cho phép kiểm soát tốt hơn vì làm giảm luồng tia phạm đến mô lành
quanh bướu trong khi vẫn tập trung vào bướu liều xạ cao nhất.
Một
kỹ thuật tương đương: Xạ trị quy ước với chùm tia proton (Conformal proton beam
radiation therapy) dùng cách tiếp cận tương tự để xạ trị nhắm vào đích bướu,
nhưng thay vì tia X thì dùng chùm tia proton. Proton là một thành phần của phân
tử gây tác hại ít nhất cho các mô mà nó xuyên qua nhưng lại tiêu diệt tế bào
hiệu quả nhất ở cuối đường đi của nó. Như vậy thì chùm tia proton sẽ được phóng
nhiều vào bướu đồng thời giảm thiểu liều tác hại cho mô lành kế bên.
Xạ
phẫu theo hình ảnh ba chiều (Stereotactic radiosurgery) hay xạ trị theo hình
ảnh ba chiều (Stereotactic radiation therapy) mô tả các kỹ thuật xạ trị nhằm
đưa một liều phóng xạ cao và chính xác vào một khối bướu nhỏ. Từ ngữ “phẫu” có
hơi cường điệu vì thực tế không có động tác cắt mổ nào cả nhưng kết quả lại y
như nhau: làm tan biến khối bướu. Vị trí ung thư thường được áp dụng kỹ thuật
này là bướu não. Một máy gia tốc thẳng, hoặc một máy xạ trị đặc biệt như Gamma
Knife (Dao gamma) hay Cyber Knife (Dao vũ trụ) có khả năng điều trị theo cách
này.
Xạ
trị trong mổ (Intraoperative radiaton therapy - IORT) là kỹ thuật điều trị bằng
tia phóng xạ trong lúc mổ. Tia phóng xạ được đưa trực tiếp vào khối bướu hoặc
vào mô chung quanh bướu sau khi ung thư được mổ lấy đi. Kỹ thuật này thuận lợi
để điều trị các ung thư trong xoang bụng hay vùng chậu và cho các ung thư có
khuynh hướng dễ tái phát. IORT giảm tối đa khối mô chịu ảnh hưởng của chùm tia
phóng xạ bởi vì có thể xê dịch mô lành ra xa trong lúc mổ và rồi sau đó gom
lại, nhờ thế cho phép chiếu một liều xạ tối đa vào khối ung thư.
Những
hóa chất gây biến đổi hay là gây cảm ứng xạ là những chất làm cho ung thư nhạy
hơn với phóng xạ (chất kích nhạy xạ: chemical radiosensitizers). Mục đích tìm
ra những chất kích nhạy xạ nhằm phát triển các hoạt chất làm cho khối bướu đáp
ứng tốt hơn với phóng xạ mà không tổn hại mô lành. Các nhà nghiên cứu cũng gia
công tìm kiếm những chất giúp bảo vệ tế bào lành trước tác hại của phóng xạ.
4. Hóa
trị
Trong Thế chiến
thứ hai, những người thuộc lực lượng Hải quân Mỹ thường phải đối mặt với chất
khí cải cay (khí mù – tạc, mustard gas) trong những hoạt động quân sự. Độc tính
của chất khí cải cay làm biến đổi tủy xương và ảnh hưởng đến các tế bào máu.
Cũng trong thời kỳ này, quân đội Mỹ đã nghiên cứu một số hóa chất liên quan đến
chất khí cải cay có nhiều công dụng trong chiến tranh đồng thời xây dựng một số
biện pháp phòng chống. Trong khi tiến hành nghiên cứu này người ta nhận thấy
một hợp chất là Nitrogen mustard có tác dụng chống lại một loại ung thư của hệ
thống hạch bạch huyết gọi là bệnh Lymphoma. Hợp chất này được sử dụng làm chuẩn
chế tạo một loạt hoạt chất tương tự nhưng có tác dụng tốt hơn gọi là hoạt chất
alky-hóa (alkylating agents). Hoạt chất alky-hóa tiêu diệt tế bào ung thư nhanh
hơn vì gây hư hoại các DNA của chúng.
Không
bao lâu sau khám phá ra chất Nitrogen mustard, bác sĩ Sidney Farber (1903 -
1973) ở Boston đã chứng minh chất Aminopterin – một hợp chất từ sinh tố Folic
acid – làm thuyên giảm các bệnh nhi bị bệnh bạch cầu cấp. Aminopterin đã chặn
lại một phản ứng hóa học then chốt mà DNA cần để nhân đôi phân tử. Aminopterin lại
là tiền thân của Methotrexate là thuốc mà ngày nay người ta vẫn còn dùng điều
trị ung thư. Từ đó các nhà nghiên cứu khác đã tìm ra nhiều loại thuốc có tác
dụng ngăn chặn nhiều chức năng trong sự tăng trưởng và nhân đôi tế bào. Thời
đại của Hóa trị đã mở ra từ đấy.
Ung
thư di căn lần đầu tiên được trị khỏi vào năm 1956 khi mà Methotrexate được
dùng để điều trị một loại ung thư hiếm gặp: Ung thư nhau (Ut rau – choriocarcinoma).
Rồi nhiều năm trôi qua những thuốc hóa trị đã điều trị thành công cho nhiều
bệnh nhân ung thư. Trong thập niên 1960 đã có những báo cáo đầu tiên về kết quả
của hóa trị bao gồm kết quả đáp ứng thuốc lâu dài và ngay cả trị khỏi nhiều
bệnh nhân mắc bệnh Hodgkin và bệnh ung thư máu hay bạch cầu cấp ở trẻ em. Điều
trị khỏi bệnh ung thư tinh hoàn cũng được ghi nhận vào thập kỷ kế tiếp…Nhiều
loại ung thư khác cũng đã được kiểm soát trong thời gian dài với hóa trị, mặc
dù chưa trị được khỏi bệnh. Ngày nay đã có nhiều tiếp cận nhằm tăng cường tác
dụng đồng thời giảm thiểu độc tính của hóa trị, bao gồm:
-
Nhiều loại thuốc mới, nhiều công thức phối hợp
thuốc và thêm nhiều kỹ thuật mới đưa thuốc vào trong cơ thể được tìm ra.
-
Nhiều cách tiếp cận mới với những thuốc nhắm vào
đích đặc hiệu hơn cho các tế bào ung thư (như là điều trị kết hợp với Liposome
và điều trị với kháng thể đơn dòng) và làm giảm các tác dụng phụ nhiều hơn.
-
Thuốc làm giảm thiểu các tác dụng phụ như là các
loại yếu tố kích thích dòng tế bào (colony – stimulating factors), các hoạt
chất bảo vệ (chemoprotective agents) như Dexraroxane và Amifostine, và các chất
chống nôn ói.
-
Chất vượt qua sự đề kháng đa thuốc (khi mà bệnh
ung thư không đáp ứng với nhiều hóa chất đặc trị thông thường).
Thời kỳ đầu của
thế kỷ 20, chỉ những ung thư nhỏ và tương đối khu trú mới có thể mổ cắt lấy
trọn là được trị khỏi. Về sau, xạ trị sử dụng sau phẫu trị nhằm kiểm soát những
phần bướu nhỏ phải để lại sau phẫu thuật. Sau cùng, hóa trị được bổ sung để
tiêu diệt những phần nhỏ khác của bướu vượt ra ngoài tầm kiểm soát của phẫu trị
và xạ trị. Hóa trị sau phẫu trị được gọi là hóa trị hỗ trợ (Adjuvant chemotherapy).
Hóa trị hỗ trợ được sử dụng đầu tiên điều trị ung thư vú và cho kết quả tốt. Về
sau mô thức điều trị này được áp dụng cho ung thư đại tràng, ung thư tinh hoàn
và nhiều ung thư khác.
Khám phá quan
trọng nhất trong hóa trị là xác định ưu điểm của phối hợp sử dụng nhiều loại
thuốc trị ung thư (combination chemotherapy) mà không chỉ dùng một loại thuốc.
Nhiều loại bệnh bạch cầu với tăng trưởng cực nhanh và cả các bệnh Lymphoma (ung
thư các tế bào tủy xương và hạch bạch huyết) đáp ứng rất tốt với phối hợp các
thuốc đặc trị, và những nghiên cứu ca – chứng cho phép làm tăng dần tác dụng
của các kiểu phối hợp thuốc. Ngày nay, nhiều loại ung thư được chữa khỏi nhờ sự
phối hợp hài hòa của các thuốc đặc trị.
Việc tiếp cận
phương thức điều trị bệnh nhân ung thư trở nên khoa học hơn khi các công trình
nghiên cứu ca – chứng được thực hiện rộng khắp toàn cầu. Những nghiên cứu này
so sánh kết quả của các phương pháp điều trị mới với cách điều trị kinh điển đã
giúp hiểu biết tốt hơn về ưu điểm cũng như nhược điểm của từng phương pháp. Các
nghiên cứu này giúp kiểm tra những lý thuyết về ung thư thông qua những kết quả
khoa học cơ bản của Labo – xét nghiệm, đồng thời cũng kiểm tra những ý tưởng
khoa học phác họa qua bệnh cảnh lâm sàng của người bệnh. Đó là điều cần thiết
cho sự tiến bộ và phát triển khoa học dài lâu.
5. Điều
trị miễn dịch
Hiểu biết tốt
hơn về sinh học của tế bào ung thư đã dẫn đến việc phát triển sự sản xuất những
tác nhân sinh học có tính bắt chước một số tín hiệu tự nhiên mà cơ thể dùng để
kiểm soát sự tăng trưởng của tế bào. Các thực nghiệm trên lâm sàng với những
tác nhân sinh học này cho thấy đây là phương pháp điều trị có tác dụng tốt đối
với nhiều loại ung thư. Nguyên lý của phương thức này là làm thay đổi đáp ứng
sinh học của tế bào ung thư (biological response modifier: BRM) nên gọi là điều
trị sinh học hoặc điều trị miễn dịch.
Một số tác nhân
sinh học xuất hiện tự nhiên trong cơ thể, ngày nay đã có thể được bào chế trong
phòng thí nghiệm – Ví dụ như các interferons, interleukins và nhiều loại
cytokines khác. Những chất này khi đưa vào cơ thể người bệnh có tác dụng bắt
chước hoặc thúc đẩy phản ứng miễn dịch tự nhiên của cơ thể. Chúng tác động trực
tiếp gây hư hoại sự tăng trưởng của tế bào ung thư hoặc gián tiếp giúp các tế
bào lành khỏe kiểm soát các tế bào ung thư.
Một trong những
ứng dụng ngoạn mục của điều trị sinh học đến từ việc nhận diện được một vài
chất “đích” của bướu – gọi là kháng nguyên ung thư – rồi nhắm tìm một kháng thể
trúng với kháng nguyên – đích đó. Phương pháp này đầu tiên được dùng để phát
hiện ra bướu rồi chẩn đoán ra ung thư, và rồi gần đây hơn được dùng để tiêu
diệt tế bào ung thư. Với những kỹ thuật công nghệ tiên tiến trong thập niên 1970,
các nhà khoa học đã bào chế hàng loạt kháng thể đơn dòng được chuyên biệt hóa
nhắm đích là những thành tố hóa học của tế bào ung thư. Các phương pháp được
tinh luyện với kỹ thuật kết hợp lại DNA làm gia tăng tác dụng điều trị và giảm
thiểu các tác dụng phụ. Vào cuối thập niên 1990, điều trị lần đầu tiên bằng
kháng thể đơn dòng với Rituximab (Rituxan) và Trastuzumab (Herceptin) cho ung
thư vú và bệnh lymphoma đạt kết quả khả quan. Ngày nay thì các kháng thể đơn
dòng được dùng thường quy điều trị một số bệnh ung thư, và nhiều chất khác cũng
đang tiếp tục được tìm kiếm.
Các nhà khoa học
cũng nghiên cứu những thuốc chủng có tác dụng gia tăng phản ứng miễn dịch của
cơ thể chống lại tế bào ung thư. Năm 2010, thuốc Sipuleucel – T (Provenge) đã
được FDA phê chuẩn, đó là một loại thuốc chủng cho ung thư tiền liệt tuyến di
căn và đề kháng với nội tiết tố. Không giống như các thuốc chủng ngừa khác,
Provenge kích thích khả năng tấn công tế bào ung thư của hệ miễn dịch của cơ
thể. Phương pháp này giúp một số bệnh nhân nam bị ung thư tiền liệt tuyến sống
lâu hơn, nhưng không điều trị khỏi bệnh được. Đó là một bước tiến quan trọng
của điều trị ung thư.
6. Điều
trị nhắm đích
Cho đến cuối
thập niên 1990, gần như tất cả thuốc trị ung thư (ngoại trừ các nội tiết tố)
hoạt động bằng cách tiêu diệt tế bào ung thư đang trong thời kỳ sao chép DNA và
chia thành hai tế bào mới. Những thuốc hóa trị này cũng diệt một số tế bào lành
nhưng tác động chủ yếu đến tế bào ung thư.
Điều trị nhắm
đích tập trung vào các cơ chế kiểm soát sự tăng trưởng, phân chia và lan tràn
của tế bào ung thư cũng như vào tín hiệu thúc đẩy tế bào ung thư chết theo cách
tự nhiên (con đường bình thường của tế bào lành bị thương tổn hay già đi). Điều
trị nhắm đích hoạt động theo nhiều cách khác nhau.
a.
Các chất ức
chế tín hiệu tăng trưởng tế bào
Các yếu tố tăng
trưởng là những chất giống nội tiết tố đến báo cho tế bào biết khi nào tăng
trưởng, khi nào phân chia. Vào thập niên 1960, nhiệm vụ của các yếu tố này được
ghi nhận đầu tiên là trong thời kỳ phát triển của phôi và trong việc sửa chữa
các mô bị thương tổn. Về sau người ta biết là hình thái bất thường hoặc lượng
cao bất thường của các yếu tố tăng trưởng góp phần vào sự tăng trưởng và lan
tràn của tế bào ung thư. Các nhà nghiên cứu cũng bắt đầu hiểu được bằng cách
nào các tế bào nhận ra những yếu tố trên và đáp ứng theo chúng; và bằng cách
nào các yếu tố tăng trưởng tác động vào các tín hiệu trong tế bào gây nên những
bất thường ở tế bào ung thư. Các thay đổi trong đường truyền của tín hiệu đã
được xác nhận là nguyên nhân gây nên sự biến đổi bất thường của tế bào ung thư.
Trong thập niên
1980, các nhà khoa học tìm ra đa số các yếu tố tăng trưởng và nhiều chất khác
có nhiệm vụ nhận biết và đáp ứng các yếu tố này lại là vật phẩm của các gen
sinh ung. Trong các điều trị nhắm đích đầu tiên có khả năng ức chế tín hiệu
tăng trưởng gồm có: Trastuzumab (Herceptin), Gefitinib (Iressa), Imatinib
(Gleevec) và Cetuximab (Erbitux). Ngày nay còn nhiều chất khác nữa sẵn sàng
được sử dụng.
b.
Các chất ức
chế sự tăng sinh mạch máu
Tăng sinh mạch
là cơ chế tạo ra các mạch máu mới: Angiogenesis – Từ này gồm hai từ Hy Lạp:
Angio là mạch máu, và genesis là khởi sinh, tân sinh. Bình thường đó là cơ chế
bảo vệ sức khỏe cơ thể: Những mạch máu mới được tân tạo giúp cơ thể sửa chữa
các mô bị thương tổn và làm lành lặn các vết thương. Thế nhưng ở người bệnh ung
thư thì cơ chế này tạo lập ở bướu những mạch máu nhỏ li ti giúp bướu tăng
trưởng!
Các chất chống
tăng sinh mạch là loại điều trị nhắm đích với những thuốc hoặc hoạt chất khác
ngăn chặn bướu tạo thêm mạch máu mới cần thiết để nó tăng trưởng. Từ đầu thập
niên 1970, Judah Folkman (1933 - 2008) là người đầu tiên nêu ra quan điểm này.
Nhưng phải đợi mãi đến 2004 thì mới có chất ức chế tăng sinh mạch đầu tiên là
Bevacizumab (Avastin) được công nhận. Bevacizumab được dùng điều trị ung thư
đại trực tràng tiến xa, ung thư thận và ung thư phổi. Về sau Bevacizumab được
nghiên cứu điều trị cho nhiều loại ung thư khác. Từ năm 2004 đến nay, nhiều
loại thuốc mới với khả năng ngăn chặn tăng sinh mạch đã được bổ sung vào danh
mục.
c.
Các thuốc
kích đẩy cái chết lập trình của tế bào
Apoptosis hay
cái chết lập trình của tế bào là một cơ chế tự nhiên qua đó những tế bào có DNA
hư hỏng nặng khó tự sửa chữa – như tế bào ung thư chẳng hạn – có thể bị kích
thích và thúc đẩy phải chết. Nhiều phương pháp điều trị ung thư (bao gồm cả xạ
trị và hóa trị) gây nên những biến đổi ở tế bào cuối cùng dẫn đến cái chết của
tế bào ung thư. Thế nhưng các thuốc trong nhóm điều trị đích thì lại khác vì
chúng nhắm chuyên biệt vào đích là những thành tố của tế bào có chức năng kiểm
soát sự sống và chết của tế bào.
I.
TIẾN BỘ
CỦA KHẢ NĂNG SỐNG CÒN CỦA NGƯỜI BỆNH UNG THƯ
Chỉ trong vài
thập niên vừa qua thì dự hậu (hay là viễn cảnh tương lại) của những người phải
đối mặt với bệnh ung thư không được thuận lợi như hiện nay. Trong thập niên
1970 ước chừng 1/2 người bệnh ung thư sống được 5 năm (theo thuật ngữ ung thư
thì một người mắc bệnh ung thư hoàn tất điều trị, sau đó sống không bệnh được 5
năm thì được xem là khỏi bệnh). Ngày nay thì nhiều hơn 2/3 bệnh nhân ung thư đã
qua điều trị sống được lâu hơn thế. Riêng ở Mỹ hiện có hơn 14 triệu người sống
khỏi bệnh ung thư.
Vì có nhiều
người hơn sống khỏi bệnh ung thư, nên có nhiều quan tâm hơn tập trung vào chất
lượng sống và những kết quả về lâu về dài đối với những người khỏi bệnh này.
Các nhà khoa học nghiên cứu hành vi đã tìm tòi và học hỏi kỹ hơn những vấn đề
mà người khỏi bệnh ung thư phải đối mặt. Một số vấn đề có liên quan đến y học
thí dụ như tác dụng phụ kéo dài vĩnh viễn của điều trị, hay khả năng xuất hiện
một ung thư thứ nhì gây nên bởi chính việc điều trị, rồi sự cần thiết của điều
trị lâu dài và việc theo dõi y tế định kỳ. Còn những vấn đề khác nữa thí dụ như
những khó khăn thách thức về tâm lý, về xã hội, cụ thể như làm sao có được bảo
hiểm y tế, hay sự phân biệt đối xử của chủ sử dụng lao động, rồi những thay đổi
trong mối quan hệ đưa đến chứng sợ bị xâm hại, hoặc là phải học cách sống dưới
áp lực căn bệnh sẽ tái lại.
Ung thư là từ mà
người ta thường sợ hãi khi phải nói ra trước công chúng, và người ta cũng rất
khó khăn chấp nhận là người đã được thoát khỏi bệnh ung thư. Ngày nay có nhiều
người nổi tiếng và nhiều nhà lãnh tụ trên thế giới đã thẳng thắn trao đổi và
chia sẻ những trải nghiệm về bệnh ung thư của chính bản thân họ. Viễn cảnh bệnh
ung thư là bệnh chữa khỏi được và nỗi sợ hãi phải sống với quá khứ gắn liền với
căn bệnh này đang dần dần thay đổi.
J.
UNG THƯ Ở
THẾ KỶ 21
Sự phát triển
kiến thức về sinh học ung thư của chúng ta đã đem lại những tiến bộ quan trọng
trong phòng ngừa, phát hiện sớm và điều trị ung thư. Các nhà khoa học đã tìm
tòi học hỏi được rất nhiều về bệnh ung thư trong hai thập niên vừa qua, vượt xa
những hiểu biết thu lượm được trong suốt tất cả bao nhiêu thế kỷ trước đây. Thế
nhưng vẫn chưa đủ để xoay chuyển được vấn đề, dù rằng tất cả kho kiến thức này
đã dựa trên những hiểu biết và khám phá đạt được thông qua quá trình làm việc vất
vả của các nhà khoa học tiền bối. Chúng ta biết là vẫn phải tiếp tục học hỏi
tìm tòi để khám phá thêm nữa.
Nghiên cứu về
bệnh ung thư đang tiến bộ trên rất nhiều lãnh vực nên thật khó để lựa chọn vấn
đề nào là tiến bộ quan trọng nhất. Sau đây là một vài thí dụ:
·
Càng
nhiều phương thức điều trị nhắm đích: Khi càng tìm tòi học hỏi về sinh học
phân tử của bệnh ung thư thì các nhà nghiên cứu lại càng tìm ra nhiều đích phân
tử cho những thuốc mà họ mới tổng hợp. Dần dần, cùng với càng nhiều kháng thể
đơn dòng hơn và ít chất ức chế đường truyền, các nhà nghiên cứu đang phát triển
được những nhóm phân tử mới như antisense deoxynucleotides và small interfering
RNA (siRNA). Các nghiên cứu cũng đang được thực hiện để phát minh các thuốc
nhắm hướng đích nhằm tấn công cả các protein sản sinh ra bởi các đột biến gen
đặc trưng trong tế bào ung thư.
·
Điều trị
miễn dịch: Thuốc nhắm vào các điểm kiểm soát miễn dịch đang được phát triển
để hỗ trợ hệ miễn dịch của cơ thể tiêu diệt mạnh hơn tế bào ung thư.
·
Nhiều
phát triển hơn về di truyền ung thư: Các nhà nghiên cứu nhắm vào các đột
biến gen tác động ở một số người bệnh tạo nên đáp ứng tốt hơn với một vài loại
thuốc nào đó.
·
Kỹ thuật
nano: Kỹ thuật mới trong sản xuất vật liệu tạo ra thành những hạt siêu nhỏ
đưa vào trong cơ thể giúp cho các kỹ thuật hình ảnh dễ dàng tìm ra vị trí của
khối bướu. Đồng thời kỹ thuật này cũng hỗ trợ phát triển những đường dẫn mới để
đưa thuốc điều trị đến tế bào ung thư một cách chuyên biệt và hiệu quả hơn.
·
Phẫu
thuật robot: Cụm từ này mô tả việc vận hành các dụng cụ mổ qua điều khiển
các tay cầm robot dưới sự kiểm soát của một phẫu thuật viên. Hệ thống robot đã
được sử dụng thực hiện nhiều phẫu thuật điều trị ung thư: Cắt tuyến tiền liệt
là phẫu thuật thường được làm nhất trong phẫu trị ung thư. Với những tiến bộ
không ngừng về cơ học và vi tính thì các nhà nghiên cứu tin tưởng trong tương
lai sẽ có những hệ thống robot giúp mổ các bệnh ung thư tận gốc hơn với sang
chấn phẫu thuật tối thiểu.
·
Expression
profiling và proteomics
Expression profiling cho phép các nhà khoa học xác định một cách tương
đối sản lượng của hàng trăm thậm chí hàng ngàn phân tử (bao gồm cả các protein
làm ra bởi RNA, DNA, thậm chí bởi một tế bào hay một loại mô) trong một lần
thao tác. Biết được loại protein nào có mặt trong tế bào có thể giúp cho nhà
khoa học thêm thông tin về hoạt động của tế bào đó. Trong ung thư điều này giúp
phân biệt tế bào có độ ác tính cao với tế bào có độ ác tính thấp, và có khi
giúp tiên đoán loại thuốc nào mà bướu có khả năng đáp ứng tốt hơn.
Kỹ thuật proteomics còn dùng để tiến hành thử nghiệm tầm soát ung thư.
Đối với phần đông các loại ung thư, việc đo đạc lượng của một protein trong máu
là không thật hữu ích để phát hiện sớm ung thư. Thế nhưng các nhà nghiên cứu hy
vọng vào việc so sánh một cách tương đối lượng của nhiều loại protein sẽ hữu
ích hơn; và khi tìm thấy lượng của vài loại protein này cao và lượng của vài
loại protein khác thấp thì thông tin có được sẽ hữu ích cho phương pháp điều
trị và cho dự hậu sau điều trị của bệnh. Các protein và vài loại phân tử khác
có thể được tìm thấy trong hơi thở ra, đây là việc mà hiện nay đang được tập
trung tiến hành để tìm xem có thể phát hiện dấu chứng sớm của ung thư phổi. Đây
là lãnh vực nghiên cứu rất lý thú và hứa hẹn sẽ sớm cho những hiểu biết sâu hơn
về bệnh ung thư phổi và ung thư đại trực tràng.
PHỤ LỤC
I.
CHÚ GIẢI CỦA
NGƯỜI DỊCH
Bài “The History
of Cancer” của ACS đọc kỹ sẽ cảm nhận được tính lịch sử sâu sắc và tính chuyên
môn khoa học cao.
Trong bài có một
số từ hay cụm từ chuyên khoa về ung thư học và sinh học phân tử ung thư chưa có
từ tiếng Việt tương hợp. Người dịch ghi lại, kèm theo chú giải với mong muốn
giữ được sự xuyên suốt khi đọc bài dịch.
1.
Trang 5: Gen
BRCA1 và BRCA2. Đây là 2 gen thuộc nhóm ức chế bướu. BRCA1 được tìm ra năm
1990, nằm ở nhánh dài của nhiễm sắc thể 17, BRCA2 được tìm ra năm 1995, cũng ở
nhánh dài của nhiễm sắc thể 13. Những protein sản xuất bởi 2 gen này ngăn chặn
không cho tế bào tăng trưởng và phân chia quá nhanh hoặc không kiểm soát được.
Đột biến ở các gen này có nguy cơ làm tăng tỷ lệ phụ nữ mắc ung thư vú và ung
thư buồng trứng lên gấp 4 – 5 lần.
Nói thêm: Nữ
tài tử Angelina Jolie (AJ, sinh 1975) được phát hiện có đột biến gen BRCA1,
được giải thích có nguy cơ 87% mắc ung thư vú và 50% mắc ung thư buồng trứng.
Mẹ của AJ, bà Marcheline Bertrand mất vì ung thư buồng trứng năm 56 tuổi
(2007). AJ đã tiến hành làm đoạn nhũ dưới da hai vú kèm tạo hình vú năm 2013,
và cắt bỏ hai buồng trứng năm 2015.
2.
Trang 9: Aromatase
và các chất ức chế aromatase. Ung thư vú là loại ung thư có liên hệ với nội
tiết tố estrogen. Khoa học đã khám phá estrogen có khả năng kích thích tế bào
ung thư vú tăng trưởng. Ở phụ nữ tiền mãn kinh mắc ung thư vú, người ta vô hiệu
hóa tác dụng của estrogen bằng cách hủy hai buồng trứng (cắt bỏ hoặc xạ trị).
Tuy nhiên còn một số mô khác của cơ thể vẫn tổng hợp và sản xuất estrogen với
lượng ít hơn. Aromatase là chất men cần thiết cho sự tổng hợp estrogen. Các
chất ức chế aromatase giúp triệt tiêu sự sản xuất estrogen của cơ thể, vì vậy
có công dụng phòng ngừa và điều trị ung thư vú ở phụ nữ đã mãn kinh.
Tamoxifene
(Nolvadex) đã được sử dụng từ 1977 là một chất thuộc nhóm SERMs (Selective
estrogen receptor modulator) có tác dụng tranh chỗ gắn vào thụ thể estrogen
(ER) cản không cho estrogen gắn vào để được hoạt hóa: Tamoxifene là hoạt chất
đầu tiên điều trị ung thư vú. Những chất ức chế aromatase là loại thuốc đời
sau, tiêu biểu là Anastrozole (Arimidex) và Letrozole (Femara).
LHRH: Luteinizing – hormone
releasing – hormone. Một khám phá quan trọng về nội tiết học là tìm ra một
nhóm nội tiết tố của vùng dưới đồi não bộ (hypothalamus). Đó là nhóm
Gonadotropine – releasing hormones, gồm có Follicle stimulating – hormone
releasing – hormone (FSH-RH) và Luteinizing – hormone releasing – hormone
(LH-RH).
LH-RH hoặc các
chất đồng đẳng tranh chỗ với tín hiệu mà tuyến tiền não thùy tiết ra kích thích
buồng trứng tiết ra estrogen. Sử dụng LH-RH cũng là một cách loại trừ tác dụng
của estrogen để điều trị ung thư vú. Công trình khám phá nhóm nội tiết tố này
đã đem lại giải thưởng Nobel sinh lý học năm 1977 cho ba nhà khoa học là Roger
Guillemin, Andrew Schally và Rosalyn Yalow.
3.
Trang 10: Alkylating
agents/ Hoạt chất alkyl – hóa. Đây là nhóm thuốc không phải nội tiết tố lần
đầu tiên sử dụng điều trị ung thư.
Trong thế chiến
thứ nhất, chất khí cải cay – mustard gas mà hoạt chất là sulfur mustard được sử
dụng làm vũ khí hóa học. Năm 1943, ở Bari – Ý, sau một tai nạn với chất khí cải
cay, những người bị phơi nhiễm làm xét nghiệm máu thấy các dòng tế bào máu giảm
mạnh, nhất là bạch cầu, do tủy xương bị ức chế. Tình cờ người ta tìm ra một
hoạt chất có tác dụng trị ung thư máu (bệnh bạch cầu). Hoạt chất này là nhóm
Alkyl CnH2n+1 gây hư hoại DNA làm tế bào ngừng phân chia và chết đi.
Chất đầu tiên
tổng hợp làm thuốc trị ung thư là Cyclophosphamide. Sau đó nhiều chất khác tiếp
tục được tổng hợp, tập hợp thành 3 nhóm:
-
Nhóm cổ điển: Cyclophosphamide, Melphalan,
Chlorambucil, Ifosfamide
-
Nhóm đồng dạng với gốc Platinum: Cisplatine,
Carboplatin, Oxaliplatin
-
Nhóm không cổ điển: Procarbazin, Altretamin
4.
Trang 11: Điều
trị kết hợp với Liposome. Một vấn đề liên quan đến hóa trị: Phần lớn các
ung thư có dạng bướu đặc với một số thuộc tính đặc biệt như là bất thường về hệ
máu nuôi, bất thường của các thụ thể, biến đổi của vi môi trường quanh bướu về
độ toan, về các loại men như thiolase… Đó là những hạn chế tác dụng đối với các
thuốc hóa trị. Để bảo vệ số lượng và chất lượng của thuốc đặc trị các nhà khoa
học tìm kiếm các vi chất (nano - particles) để làm chất vận chuyển – Liposome
là một chất vi vận chuyển (nanovector) có khả năng bảo toàn và chuyên chở thuốc
trong máu, đến tập trung tối đa quanh bướu và lựa chọn các đích phân tử chính xác
nên sẽ đạt hiệu quả điều trị cao nhất.
5.
Trang 12: Interferons,
Interleukins, Cytokines.
Cytokines là
một nhóm proteins có trọng lượng phân tử nhỏ tác động đến các tế bào ở gần nó
và tạo ảnh hưởng như một chất điều hòa và kích thích miễn dịch. Cytokines được
sản xuất bởi nhiều loại tế bào khác nhau trong cơ thể như đại thực bào, tế bào
lymphô B và T và một số tế bào khác vì vậy được chia thành nhiều nhóm khác
nhau, trong đó quan trọng nhất là Interferons, Interleukins. Các nhà khoa học
đã nghiên cứu và tổng hợp được các Interferons, Interleukins để sử dụng làm
thuốc kích thích và làm tăng phản ứng miễn dịch của cơ thể chống lại virut, vi
khuẩn, ký sinh trùng xâm nhập và cả tế bào ung thư.
6.
Trang 14: Antisense
deoxynucleotides: Về kỹ thuật các nhà khoa học kết hợp lệch đôi hai đoạn
nửa chuỗi DNA (lệch đôi hay ngược đôi các nucleobase) để thử nghiệm một phương
pháp điều trị gọi là antisense therapy. Đầu tiên nhắm vào các bệnh di truyền
hay lây nhiễm có liên hệ với gen đột biến – thí dụ như bệnh tiểu đường, viêm
khớp, bệnh amyotrophic lateral sclerosis – qua nghiên cứu tiền lâm sàng cho
thấy phương pháp điều trị này có tiềm năng kích thích tác dụng miễn dịch của cơ
thể, và khi kết hợp với các phương pháp điều trị ung thư kinh điển sẽ làm gia
tăng hiệu quả điều trị.
Năm 2014, có
hai loại thuốc antisense đã được FDA phê duyệt. Formivisen (Vitravene) chữa
bệnh viêm kết mạc do Cytomegavirus và Miproversen (Kynamro) chữa bệnh tăng
cholesterol có tính gia đình.
Các nhà khoa
học tin rằng kết hợp điều trị antisense với kháng thể đơn dòng sẽ làm gia tăng
hiệu quả của hóa trị và xạ trị. Một công trình nghiên cứu lớn trong điều trị pha
II và pha III bệnh ung thư phổi đang được tiến hành sẽ sớm cho kết quả.
7.
Trang 14: Small
interfering RNA (SiRNA): Về kỹ thuật là các thành phẩm tương tự như
antisense deoxynucleotides (đoạn chuỗi từ 13 – 15 nucleotides) với đoạn chuỗi
từ 21 – 23 nucleotides. Vì số lượng nucleotides lớn hơn nên cần có chất vi vận
chuyển (nano vectors) để đưa vào đến tế bào. Bước đầu thực nghiệm cho thấy có
tiềm năng điều trị một số bệnh của hệ thần kinh trung ương. Bước kế tiếp là thử
nghiệm điều trị một số bệnh ung thư di căn vào gan với kết quả sơ khởi là bệnh
ung thư ổn định được 6 tháng kèm theo sự thoái triển của di căn ở gan.
SiRNA được hy
vọng là một phương thức mới đưa thuốc đích vào đến tế bào, giúp nhận diện các
đích mới của một số bệnh như viêm gan, HIV và bệnh ung thư.
8.
Trang 14: Expression
profiling/ Gene expression profiling (GEP)
Ung thư là bệnh
biểu hiện sự tăng trưởng và phân chia của tế bào không kiểm soát được. Nguyên
nhân do các gen điều hòa sự phát triển và biệt hóa của tế bào bị hư hỏng do đột
biến. Những đột biến này thông qua sự phân chia liên tục của tế bào sẽ hiện
diện ở tất cả các tế bào ung thư.
Tạm hiểu GEP là
kỹ thuật sinh học phân tử nhằm giải mã sự biểu hiện của cả ngàn gen, biết được
hoạt động của tế bào ở từng thời điểm qua thu thập số lượng và chất lượng các
protein được tế bào sản xuất. Những thông tin ngày giúp phân loại bướu chính
xác hơn, và giúp tiên đoán diễn tiến cũng như hiệu quả điều trị trên người bệnh
ung thư.
9.
Trang 14: Kỹ
thuật Proteomics
Proteome là bộ
của tất cả protein được bộ phận cơ thể - loại mô – hoặc tế bào sản xuất được
phân tích và giải trình bằng kỹ thuật sinh học phân tử.
Nghiên cứu bộ
các protein giúp tìm ra các protein có dính líu hay gắn kết với một căn bệnh.
Sau đó với thông tin về cấu trúc 3D của protein người ta sẽ tìm loại hóa chất
nào chen được vào protein và tác động vào tế bào bệnh.
Đồng thời, khi
nghiên cứu về bộ protein các nhà khoa học sẽ tìm được những khác biệt đặc trưng
trên lãnh vực di truyền của cá nhân và dùng làm cơ sở tổng hợp thuốc ứng hợp
với cá nhân đó.
Mặt khác, cũng
qua nghiên cứu về bộ protein, các nhà khoa học sẽ tìm ra trình tự những protein
chính trên một mẫu riêng nhưng khác biệt trên một mẫu khác: ví dụ như mẫu tế
bào bệnh với mẫu tế bào khỏe mạnh. Nếu tìm ra một protein nào đó chỉ có ở tế
bào bệnh thì đó có thể là một đích nhắm tốt để sản xuất thuốc đặc trị nhắm
đích. Trong tương lai, với những tiến bộ mới của kỹ thuật sinh học phân tử sẽ
giúp tìm ra các protein sử dụng như chất đánh dấu sinh học để chẩn đoán ung thư
sớm nhất.
II.
LỜI BẠT
Quả đất và con
người đã có từ bao triệu năm. Thời tiền sử là từ sáu triệu năm đến ba ngàn năm
trăm năm trước thời đại bây giờ (TĐBG). Người tối cổ sống trên quả đất bốn
triệu năm trước, tiến hóa thành người tinh khôn đã bốn vạn năm trước TĐBG.
Một
vạn năm trước TĐBG là thời đá mới đánh dấu một cuộc cách mạng trong đời sống
của người tinh khôn: Biết trồng trọt chăn nuôi, biết dùng da thú che thân và
bắt đầu có “văn hóa”.
Chỉ
ba ngàn năm trước công nguyên, cổ thư Edwin Smith đã mô tả 8 trường hợp bướu
hoặc loét ở vú được đốt lấy đi là ghi nhận đầu tiên về bệnh ung thư ở người.
Trong
khoảng bảy trăm năm từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên đến thế kỷ thứ 2 sau công
nguyên: Hippocrates, ông tổ ngành Y rồi các bậc thầy như Celsus, Galen vẫn
loanh quanh với những lý thuyết mơ hồ về nguyên nhân ung thư và các thầy thuốc
thời đó vẫn mù mờ loay hoay điều trị một căn bệnh không thể chữa khỏi.
Phải
đến thời Phục hưng thế kỷ 15 trở đi, sang các thế kỷ 16, 17, 18 nền khoa học
mới có những tiến bộ đáng kể đem lại những hiểu biết cụ thể hơn về bệnh ung
thư.
Thế
kỷ 19 sang thế kỷ 20 là thời điểm bản lề của khoa học nói chung và y học nói
riêng với những kiến thức mới khám phá vững chắc và đúng đắn: Cụ thể là ở những
thập niên cuối thế kỷ 20 sang thập niên đầu thế kỷ 21. Giải Nobel Y học năm
1962 được trao cho James Watson và Francis Crick với khám phá cấu trúc hóa học
của DNA để biết được mã di truyền của gen người là công trình cột mốc mở toang
bí ẩn của sự sống. Nghiên cứu nối tiếp nghiên cứu trên thế giới đã giúp các nhà
khoa học hiểu chính xác những nguyên nhân gây ung thư, những yếu tố nguy cơ nội
tại và ngoại lai dần dần được tìm ra. Các phương pháp điều trị ung thư nhờ đó
đã thay đổi, trở nên đặc hiệu hơn và hoàn thiện hơn.
Trong
tương lai một vài thập niên nữa, bệnh ung thư chắc chắn sẽ không còn là nỗi ám
ảnh ghê gớm của con người, mà trở thành một căn bệnh như bao nhiêu bệnh khác:
Phòng ngừa tốt, chẩn đoán sớm và điều trị khỏi lâu dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American
Society of Clinical Oncology. Clinical Cancer Advances 2009: Major Research
Advances in Cancer Treatment, Prevention and Screening. Accessed at www.cancer.net/patient/ASCO%20Resources/Research%20and%20Meetings/CCA_2009.pdf
on June 8, 2012.
2. American
Society of Clinical Oncology. Clinical Cancer Advances 2010: ASCO’s Annual
Report on Progress Against Cancer. Accessed at www.cancer.net/patient/Publications%20and%20Resources/Clinical%20Cancer%20Advances/CCA_2010.pdf
on June 8, 2012.
3. American
Society of Clinical Oncology. Clinical Cancer Advances 2011: ASCO’s Annual
Report on Progress Against Cancer. Acessed at www.cancer.net/patient/Publications%20and%20Resources/Clinical%20Cancer%20Advances/CCA_2011.pdf
on June 8, 2012.
4. American
Society of Clinical Oncology. Progress & Timelines Accessed at
www/.cancerprogress.net/timeline/major-milestones-against-cancer on June 12,
2014.
5. Contron
R, Kumar V, Robbins S. Robbins Pathologic Basis of Disease, 4th ed.
Philadelphia, Pa: WB Saunders; 1989.
6. CureToday.
Timeline: Milestones in Cancer Treatment. Accessed at www.curetoday.com/index.cfm/fuseaction/article.show/id/2/article_id/631
on June 7, 2012.
7. Devita
VT Jr, Rosenberg SA. Two Hundred Years of Cancer Research. N Engl J Med. 2012;
366 (23): 2207 – 2214.
8. Diamandopoulus
GT. Cancer: An historical perspective. Anticancer Res.1996;16:1595 – 1602.
9. Gallucci
BB. Selected concepts of cancer as a disease. From the Greecs to 1900. Oncol
Nurs Forum. 1985;12:67 – 71.
10. Hajdu SI. A Note
from History: Landmarks in History of Cancer, Part 1. Cancer.2011; 117 (5):
1097 – 1102.
11. Hajdu SI. A Note
from History: Landmarks in History of Cancer, Part 2. Cancer.2011; 117 (12):
2811 – 2820.
12. Hajdu SI. A Note from History: Landmarks in
History of Cancer, Part 3. Cancer.2012; 118 (4): 1155 – 1168.
13. Hajdu SI. A Note
from History: Landmarks in History of Cancer, Part 4. Cancer.2012; 118 (20):
4914 – 4928.
14. Hajdu SI.
Darvishian F. A Note from History: Landmarks in History of Cancer, Part 5.
Cancer.2013; 119 (8): 1450 – 1466.
15. Hajdu SI. Vadmal
M. A Note from History: Landmarks in History of Cancer, Part 6. Cancer.2013;
119 (23): 4058 – 4082.
16. Harvey AM. Early
contributions to the surgery of cancer: William S. Halsted, Hugh H. Young and
Johh G. Clark. John Hopkins Med-J. 1974;135:399 – 417.
17. Institut Jules
Bordet. The History of Cancer. Accessed at www.bordet.be/en/presentation/history/cancer_e/cancer1.htm
on June 8, 2012.
18. Kardinal C, Yabro
J. A conceptiual history of cancer. Semin Oncol. 1979; 6:396 – 408.
Last Medical
Review: 6/12/2014
Last Revised:
6/12/2014
2014 Copyright
American Cancer Society
Bài dịch:
03.3.2016 – 10.10.2016