Thứ Tư, 16 tháng 7, 2025

CUỘC HỘI NGỘ CỦA HAI BÁC SĨ “NHÓM CHỢ RẪY”

Sài Gòn những ngày giữa tháng bảy, trời lúc nắng lúc mưa bất chợt. Trong một khách sạn nhỏ giữa trung tâm, bác sĩ Hưng, mái đầu đã bạc trắng ở tuổi tám mươi, lòng dạ nóng như lửa đốt. Chuyến về Việt Nam lần này của ông quá ngắn ngủi, lại có việc đột xuất phải quay về Mỹ trong vài ngày tới. Nhưng có một việc ông canh cánh bên lòng, một lời hứa với chính mình phải thực hiện: gặp lại bác sĩ Khai, người bạn tri kỷ trong “nhóm Chợ Rẫy” năm xưa mà ông đã bặt tin suốt bốn năm trời.

Ông biết bạn mình đang ở Bình Dương, nhưng số điện thoại cũ đã không còn liên lạc được. Thời gian thì gấp rút, lòng ông rối bời. May thay, giữa lúc tưởng chừng vô vọng, một phép màu đã đến từ nửa vòng trái đất. Bác sĩ “Hưng Nhỏ”, một người bạn cùng lớp Y khoa Sài Gòn khóa 73, cũng thuộc “nhóm Chợ Rẫy” ngày ấy, sau những nỗ lực tìm kiếm không mệt mỏi từ Mỹ, đã gọi về cho ông với một dãy số quý hơn vàng. “Tao tìm được số của anh Khai rồi đây anh Hưng DC!”

Không một giây chần chừ, bác sĩ Hưng gọi ngay vào số máy ấy. Giọng nói quen thuộc từ đầu dây bên kia vang lên: “Khai nghe đây!”. Khoảnh khắc ấy, cả một bầu trời ký ức như vỡ òa. “Khai hả? Hưng đây! Hưng DC đây!”. Tiếng cười, tiếng reo vui mừng của hai người đàn ông tám mươi tuổi vang lên, xóa tan đi khoảng cách bốn năm xa cách và cả nửa thế kỷ đầy biến động. “Ông đang ở đâu? Tôi lên với ông ngay!”.

Bác sĩ Hưng không thích đi xe hơi, vì cho rằng đi nhanh quá sẽ không ngắm nhìn được gì cả. Ông quyết định ra bến xe, bắt một chuyến xe buýt để có dịp thong thả ngắm nhìn cảnh vật hai bên đường, để thấy được sự thay đổi diệu kỳ của mảnh đất này từ Sài Gòn đến Bình Dương. Khi chiếc xe buýt dừng lại tại bến xe Thủ Dầu Một, từ xa ông đã thấy một dáng người quen thuộc đang đứng đợi bên chiếc xe máy Honda. Bác sĩ Khai đây rồi! Hai người bạn già gặp nhau, tay bắt mặt mừng, tiếng cười rộn rã cả một góc bến xe.

Bác sĩ Khai đề nghị: “Bụng chắc cũng đói rồi. Tôi dẫn ông đi ăn phở trước đã, rồi mình tìm chỗ ngồi cà phê tâm sự cho thỏa. Về nhà sau.” Nói rồi, ông Khai chở bạn mình trên chiếc Honda, len lỏi qua những con đường quen thuộc, hướng đến khu dân cư Chánh Nghĩa sầm uất. Họ dừng lại ở quán phở "Dạ" , một quán ăn nổi tiếng của người địa phương.

Bên hai tô phở nóng hổi, nghi ngút khói, câu chuyện của họ bắt đầu, không đầu không cuối, như một dòng sông ký ức cuồn cuộn chảy về. Họ nhắc lại những ngày còn là cậu học trò trường Y, những đêm trắng cùng nhau ôn bài, những buổi thực tập đầu tiên đầy bỡ ngỡ ở các bệnh viện Sài Gòn. Nhưng nhiều nhất, đậm sâu nhất vẫn là những kỷ niệm ở Bệnh viện Chợ Rẫy. “Nhóm Chợ Rẫy” của họ ngày ấy, một đám sinh viên trẻ trung, nhiệt huyết, cùng nhau học tập, cùng nhau trực đêm, chia nhau từng ổ bánh mì, san sẻ từng ca bệnh khó. Chợ Rẫy không chỉ là một bệnh viện, đó là ngôi nhà chung, là nơi hun đúc tình bạn và y đức của họ.

Bác sĩ Khai rưng rưng: “Nhớ mãi món thịt ram cuốn bánh tráng Bà Già Đại K cho ăn mỗi khi đến chơi, ngon ơi là ngon!”. Bác sĩ Hưng gật đầu, mắt cũng hoe đỏ. Ký ức về những người mẹ hiền hậu, về những bữa cơm gia đình đầm ấm mà họ, những đứa con xa nhà, được “ăn ké” cứ ùa về, da diết và thiêng liêng. Bây giờ có đi khắp thế giới cũng không tìm lại được hương vị ấy. Các cụ khéo tay, nấu món nào cũng đậm đà, tình nghĩa, giờ thì đều đã thành người thiên cổ cả rồi.

Để có thêm không gian và thời gian hàn huyên, ăn xong, bác sĩ Khai lại chở bạn đến quán cà phê Kekota gần đó. Đây là một quán cà phê mới, rất khang trang do một Việt kiều đầu tư. Trong không gian yên tĩnh, họ tiếp tục dòng ký ức của mình. Họ kể về những đám cưới của bạn bè trong nhóm, những tiệc cưới trước và sau năm 1975 với những tâm trạng khác biệt.

Dòng ký ức tiếp tục chảy về thời điểm khốc liệt nhất: ngày ra trường. Mỗi người một lựa chọn, một số phận. Số phận nghiệt ngã đã đẩy họ vào những hoàn cảnh trớ trêu. Qua cuộc chiến, có những người bạn trong lớp đã nằm lại mãi mãi nơi mặt trận. Nhiều người bạn khác bị bắt, trở thành tù binh. Cuối cùng, số còn lại, tất cả đều chung một thân phận hàng binh, phải đi trình diện học tập cải tạo.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến, những tháng ngày trong các trại cải tạo là một chương buồn không thể quên. Người được về trước, người bị giữ lại lâu hơn. Sau khi được tha về, cuộc đời lại chia hai ngả: người vượt biên, người ở lại cống hiến cho quê hương theo cách riêng của mình.

Khi những câu chuyện quá khứ đã vơi đi phần nào, bác sĩ Khai mới cười xoà: “Thôi, chuyện xưa kể sao cho hết. Giờ ông về, tôi dẫn ông đi xem Bình Dương đổi mới thế nào!”.

Nói là làm, họ rời quán cà phê. Điểm đến tiếp theo là Bệnh viện Đa khoa Phương Chi, một bệnh viện tư nhân hiện đại bậc nhất Bình Dương. Bác sĩ Hưng không khỏi ngỡ ngàng trước cơ sở vật chất khang trang, sạch sẽ và trang thiết bị tối tân. Bác sĩ Khai tự hào giới thiệu: “Ở đây họ làm tốt lắm, nhất là cái trung tâm dưỡng lão này. Tôi có vào xem rồi, cơ sở vật chất, cách chăm sóc người già còn tốt hơn cả cơ sở ở Gò Vấp, Sài Gòn mà người ta hay nhắc tới.” Bác sĩ Hưng lặng lẽ gật đầu, trong lòng vừa mừng cho sự phát triển của quê nhà, vừa có chút chạnh lòng nghĩ về những người bạn già neo đơn.

Rời bệnh viện, hai ông bạn lại tiếp tục hành trình “phượt” của mình. Bác sĩ Khai chở bạn ra hướng công trình Cao tốc Vành Đai 3 đang xây dựng dở dang. Để đến được địa phận Củ Chi, nơi có cây cầu Bình Gởi tương lai sẽ vượt sông Sài Gòn, họ phải qua một chuyến đò ngang ở bến Bà Lụa. Hình ảnh hai ông lão tóc bạc phơ ngồi trên chiếc đò nhỏ, giữa dòng sông mênh mông, phía xa là những trụ cầu bê tông khổng lồ đang vươn lên trời xanh, tạo nên một bức tranh tương phản đầy ý nghĩa giữa cái cũ và cái mới, giữa quá khứ và tương lai.

Đi đến đâu, họ cũng lấy điện thoại ra chụp hình đến đó. Chụp cảnh, chụp người, chụp chung với nhau. “Phải chụp lại hết ông ạ, để tôi mang về Mỹ khoe với Hưng Nhỏ và mấy anh em bên đó, rằng chúng ta đã có một ngày thật tuyệt vời,” bác sĩ Hưng nói trong tiếng cười giòn tan. Chuyến đi dù vui nhưng cũng thấm mệt. Hai cái lưng tám mươi tuổi bắt đầu đau mỏi. Trời đang nắng gắt bỗng đổ mưa rào, họ vội vã tìm chỗ trú. Mưa tạnh, trời lại hửng nắng, họ lại tiếp tục đi. Họ vui vẻ chấp nhận cả nắng, cả mưa, cả cái mệt nhọc của tuổi già, bởi niềm vui được ở bên nhau, được cùng nhau khám phá những điều mới mẻ trên chính mảnh đất quê hương đã lấn át tất cả.

Họ về đến nhà vừa kịp lúc, khi ánh đèn đường bắt đầu thắp lên, mang theo cái mệt rã rời của tuổi tám mươi và một trái tim đong đầy kỷ niệm. Chuyến đi ngắn ngủi nhưng đã nối lại trọn vẹn một quãng đời, từ những ký ức Chợ Rẫy hào hùng đến thực tại Bình Dương đang vươn mình mạnh mẽ. Bác sĩ Hưng sẽ phải trở lại Sài Gòn để chuẩn bị cho chuyến bay về Mỹ, lại là một cuộc chia tay, một sự xa cách. Nhưng cuộc hội ngộ hôm nay đã là một món quà vô giá, một ngọn lửa ấm áp để họ sưởi ấm lòng mình trong những năm tháng còn lại của cuộc đời, dù ở hai phương trời cách biệt. Những tấm hình đã chụp sẽ là minh chứng cho một tình bạn vĩnh cửu, không phai mờ theo năm tháng.

Thứ Hai, 14 tháng 7, 2025

Chat Van Dang A UNIQUE MEDICAL EDUCATION


(Excerpt from The Mayflowers of 1975 book)
Our class was the first to enter a brand new medical school built by the US Government for the people of Vietnam. Saigon Medical School in 1966 looked very much like the Stanford School of Medicine main building in 2005, at the time of this writing. We could purchase the latest American medical textbooks at a steep discount, and for the first time, we were able to experience a cafeteria-style menu, which was both inexpensive and quite upscale at the time for us. Even though I had been at affluent European campuses in Brussels and Paris, I felt a delighted excitement on the first day as I glided my tray along the line to get served by hostesses in fresh uniforms, a rare sight in our poor country.
Our medical education was unique because our class was in the middle of major changes. All our Full Agrégé Professors were educated in the French system and lectured in French. The younger faculty who had been trained in the US taught basic sciences in Vietnamese mixed with English and French terminologies. The third group of teachers included volunteer or contracted American faculty from the US Armed Forces, private sector and academic institutions. Only recently, as I researched the full name of some of my teachers did I realize that the American Medical Association, under contract with USAID, was practically adopting the Saigon Faculty of Medicine following a strategic plan by Lawrence A. Pratt, MD. A report on the AMA Vietnam Medical Education Project was published by C. H. William Ruhe, MD, Norman W. Hoover, MD and Ira Singer, PhD in 1988.
1. Saigon Medical School, 2005
2. Stanford Medical School, 2005

Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2025

TRIỂN LÃM TRANH HOẠ SĨ CHẾ HOÀ

 Thời Pháp thuộc, sau trường dạy nghề mộc ở Thủ Dầu Một và trường dạy làm đồ gốm ở Biên Hoà thì École de Dessin được thành lập ở Gia Định năm 1913 .

Trường Vẽ Gia Định ( tên  gọi lúc đó) tiếp tục phát triển, sau trở thành trường Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định, học trình 4 năm, nhằm đào tạo học viên trình độ trung cấp.
Đến thời Đệ Nhất Cộng Hoà có thêm trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Saigon được thành lập.  Cùng với trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế , trường đã góp phần đào tạo nhiều họa sĩ tài danh thời VNCH
               x x x
Ngày 19 tháng 6, 2025 vừa qua ( ngày Quân Lực nếu nhớ không lầm), một nhóm họa sĩ xuất thân từ trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Saigon ngày xưa đã tổ chức triển lãm tranh tại Hội Mỹ Thuật trên đường Pasteur Quận 3 Saigon.

 Rất vui thấy trong nhóm họa sĩ có Chế Hoà . Hòa  là em ruột của Đại K Chế Khánh, và cũng không xa lạ gì với tụi nhỏ, HĐC, Khai, Hưng Con, Lê Nguyên( RIP )vì nhóm “Chợ Rẫy”  tụi này đến chơi  với Đại K hà rầm .

Nói tới chuyện  đến nhà Đại K  thì lại nhớ đến món thịt khìa cuốn bánh tráng với  rau sống chấm mắm tuyệt cú mèo mà Má (RIP) của Đại K ngày xưa đã làm cho ăn .
Và cũng nhớ đến đàn anh, BS Phạm Quí Hiệp (RIP),thời đó ở trong hẻm đường Tự Đức, hàng xóm rất thân với Đại K.  Anh Hiệp trước mình 2 lớp (QYHD 18), là em vợ của Thầy Lê Xuân Chất( Huyết Học), được lớp ưu ái tặng biệt danh “ Hiệp Hù “ vì hay rỉ tai những tin hồi hộp , nhất là những tin liên quan về thi cử làm cả lớp lo bấn cả ruột.
Nhắc lại những kỷ niệm xưa này để thấy rõ mối liên lạc rất thân tình  với gia đình Đại K .
 Hòa rất dễ thương, hiền lành , ít nói và học giỏi.

Sau khi tốt nghiệp, Hoà nhập ngũ vào trường bộ binh Thủ Đức ( thụ huấn ở Đồng Đế) và về phục vụ cùng đơn vị với nhỏ ( Sư đoàn 7 bộ binh) ban Tâm Lý Chiến.
Lẽ dĩ nhiên, sau 1975, thiếu úy Hoà cũng phải chịu  những năm tháng tù đầy qua các trại Thành Ông Năm Hóc Môn , Côn Đảo, Năm Căn Cà Mau . Trong tù, Hoà bị BeriBeri, hai chân yếu liệt, tưởng đâu đi đoong rồi, may mà còn về được. Khi Hoà về thì Đại K đã vượt biên rồi.
Hòa có khiếu vẽ đẹp từ nhỏ, thi tuyển vào trung học Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định đậu hạng nhất. Sở trường của chàng là tranh Sơn dầu .

Tuy là một họa sĩ tài hoa, vẽ đẹp, được nhiều người mua tranh nhưng  Hòa vẽ tranh chỉ để thỏa mãn lòng đam mê, chỉ là nghề tay trái.


 Sau 1975 Hoà thật sự sống bằng nghề chụp ảnh ( Đại K gởi về cho máy chụp ảnh khá tốt), rồi vào làm cho hãng gốm sứ Minh Long, chụp ảnh quảng cáo các sản phẩm. Sau cùng, tích lũy đủ vốn liếng,chàng ra làm riêng, tự mình thiết kế xây dựng một nhà máy in ở Thủ Đức và chính thức bước vào nghề in ấn .

Sau mấy chục năm đầy thử thách, bằng nghị lực, chịu khó và tài năng , Chế Hoà đã vươn lên , tạo dựng cho mình và gia đình một cuộc sống tương đối ổn định . Bây giờ chàng trông coi một nhà máy in ở Thủ Đức với mấy chục nhân viên . Văn phòng  Công Ty Tạo Mẫu và In  Chế Nhâm ( Tên Ba của Hoà và Đại K) được đặt tại vị trí nhà cũ ở đường Tự Đức, bây giờ là một nhà lầu khang trang do Hoà tự tay vẽ kiểu và thiết kế xây dựng.

Tuy công việc bề bộn, Hoà vẫn không thể bỏ quên cái nghiệp dĩ hội hoạ mà nỗi đam mê vẫn nồng, vẫn đậm trong lòng chàng. Cho nên có chút thì giờ rảnh , chàng lại miệt mài vẽ , cho ra những tác phẩm rất có giá trị

Có thể khẳng định triển lãm tranh vẽ của họa sĩ Chế Hoà đã thành công tốt đẹp . Tốt đẹp không những trên khía cạnh nghệ thuật ( tranh đẹp), và kinh tế( nhiều người mua tranh với giá cao) mà còn tốt đẹp trong ý nghĩa . Qua việc nêu rõ một cách tự hào danh tính ngôi trường xưa, nơi các họa sĩ đã được truyền dạy và thành danh : Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật SAIGON , các họa sĩ đã gợi nhớ, vinh danh công lao và giá trị của trường học nói chung trong một nền giáo dục khai phóng và nhân bản đã đào tạo nhiều lớp người có tài năng thật sự được trọng nể ở khắp nơi trên thế giới.

Với sự thành công tốt đẹp đó xin gởi lời chúc mừng đến họa sĩ Chế Hoà . Chúc Hoà tiếp tục thành công trong sự nghiệp của mình, nghiệp tay mặt cũng như nghiệp tay trái !

Hầu mặc Hưng

 

 

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2025

Di Sản Của Y Viện Sùng Chính: Từ Tấm Lòng Bác Ái Của Cộng Đồng Người Hoa Đến Bệnh Viện Chấn Thương Chỉnh Hình Hiện Đại

 

Giới thiệu: Tiếng Vang Của Một Tên Gọi – Khám Phá Câu Chuyện Về Y Viện Sùng Chính

Để trả lời trực tiếp cho câu hỏi, trước đây tại Thành phố Hồ Chí Minh thực sự từng tồn tại một bệnh viện với tên gọi là Sùng Chính (崇正). Việc ghi nhớ tên gọi này thành "Sùng Trinh" là một sự tam sao thất bản tự nhiên qua thời gian do sự tương đồng về ngữ âm. Điều quan trọng hơn là cơ sở y tế lịch sử này không hề biến mất mà đã chuyển mình và phát triển, trở thành tiền thân trực tiếp của  

Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình hiện đại, tọa lạc tại địa chỉ 929 đường Trần Hưng Đạo, Phường 1, Quận 5.  

Câu chuyện của bệnh viện này không chỉ đơn thuần là việc thay đổi một cái tên. Nó là một di sản sâu sắc về tinh thần cộng đồng, lòng bác ái và lịch sử đa văn hóa của vùng đất Sài Gòn – Chợ Lớn. Báo cáo này sẽ đi sâu phân tích nguồn gốc của bệnh viện từ trong cộng đồng người Hoa gốc Hẹ (Khách Gia), giải mã ý nghĩa văn hóa sâu sắc đằng sau tên gọi "Sùng Chính", và theo dấu hành trình gần một thế kỷ của nó, từ một y viện từ thiện trở thành một trong những trụ cột của y học hiện đại tại Việt Nam.

Phần I: Những Nhà Sáng Lập – Chân Dung Cộng Đồng Người Hẹ (Khách Gia) tại Sài Gòn - Chợ Lớn

Người Hẹ (Khách Gia): Một Dân Tộc Luôn Dịch Chuyển

Để hiểu được tại sao Y viện Sùng Chính ra đời, trước hết cần hiểu về những người đã sáng lập ra nó: cộng đồng người Hẹ. Người Hẹ, hay còn gọi là Khách Gia (客家), là một nhóm người Hán riêng biệt với lịch sử di cư lâu đời và một bản sắc văn hóa độc đáo. Tên gọi "Khách Gia" có nghĩa là "những người khách" hay "người ở nhờ", phản ánh lịch sử hàng ngàn năm của họ khi di chuyển đến những vùng đất mới và định cư giữa các cộng đồng địa phương khác, nhưng vẫn giữ gìn mạnh mẽ ngôn ngữ, phong tục và bản sắc riêng. Chính lịch sử này đã hun đúc nên một tinh thần đoàn kết và tự lực rất cao trong cộng đồng.  

Hệ Thống Bang Hội: Trụ Cột Cộng Đồng Nơi Đất Khách

Tại Sài Gòn – Chợ Lớn, cộng đồng người Hoa được tổ chức thành các bang hội (thường gọi tắt là bang), là những hiệp hội dựa trên cùng phương ngữ và quê quán gốc, ví dụ như bang Hẹ, bang Quảng Đông, bang Phúc Kiến, bang Triều Châu. Hệ thống này không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng mà còn đóng vai trò như một mạng lưới an sinh xã hội tự quản.

Các bang hội đã đứng ra xây dựng và vận hành mọi thứ cần thiết cho cộng đồng của mình, từ trường học, đình chùa cho đến các dịch vụ y tế và nghĩa trang. Việc các cộng đồng người Hoa khác nhau tự xây dựng bệnh viện riêng (như Bệnh viện An Bình của bang Triều Châu hay Bệnh viện Nguyễn Trãi của bang Phúc Kiến) cho thấy đây là một mô hình phổ biến. Trong bối cảnh đó, Y viện Sùng Chính không phải là một hành động từ thiện đơn lẻ, mà là một cấu phần thiết yếu trong hạ tầng xã hội của Bang Hẹ, được thiết kế để đảm bảo sức khỏe và sự an toàn cho các thành viên trong cộng đồng. Đây là minh chứng cho một tầm nhìn xa và mức độ tổ chức xã hội tinh vi, thể hiện trách nhiệm tập thể của Bang Hẹ đối với các thành viên của mình.  

Phần II: Một Hành Động Bác Ái – Sự Ra Đời Của Y Viện Sùng Chính

Lịch sử hình thành của Y viện Sùng Chính có thể được chia thành hai giai đoạn chính, phản ánh sự phát triển và lớn mạnh của chính cộng đồng sáng lập ra nó.

Giai đoạn 1: Nền Móng Ban Đầu (thập niên 1920)

Những ghi chép lịch sử cho thấy Y viện Sùng Chính ban đầu được cộng đồng người Hẹ thành lập vào năm 1920 , với quá trình xây dựng kéo dài đến năm 1926. Đây là phiên bản đầu tiên của bệnh viện, một cơ sở y tế có quy mô còn khiêm tốn, phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu cho cộng đồng.  

Giai đoạn 2: Cuộc Tái Thiết Vĩ Đại (thập niên 1960 – 1971)

Bốn thập kỷ sau, khi cộng đồng người Hẹ đã phát triển và thịnh vượng hơn, một bước ngoặt lớn đã diễn ra. Năm 1962, ông Từ Nhận Đức, khi đó là Trưởng bang Hẹ, đã đứng ra phát động một cuộc quyên góp lớn trong cộng đồng người Hoa để xây dựng lại bệnh viện một cách quy mô hơn. Trong cuộc vận động này, một nghĩa cử cao đẹp đã trở thành dấu ấn trung tâm của bệnh viện: ông  

Dư Nam Hi đã hiến tặng gần 6000 mét vuông đất với mục đích duy nhất là xây dựng một bệnh viện dành cho người nghèo.  

Nỗ lực chung này đã đơm hoa kết trái vào năm 1971, khi Bệnh viện Sùng Chính mới được khánh thành với quy mô hiện đại gồm 100 giường bệnh. Sự chuyển mình từ một y viện nhỏ bé của thập niên 1920 thành một bệnh viện khang trang vào năm 1971 không chỉ là một sự nâng cấp cơ sở vật chất. Nó phản ánh hành trình phát triển, sự thịnh vượng và tham vọng ngày càng lớn của cộng đồng người Hẹ, khi họ không chỉ chăm lo cho riêng mình mà còn mở rộng vòng tay bác ái để phục vụ cho cả những người nghèo khó trong xã hội Sài Gòn lúc bấy giờ.  

Phần III: Linh Hồn Của Tổ Chức – Giải Mã Ý Nghĩa Tên Gọi "Sùng Chính" (崇正)

Để trả lời cho câu hỏi "Tại sao có tên như vậy?", chúng ta cần phân tích sâu hơn về mặt ngôn ngữ và triết học của hai chữ "Sùng Chính".

Phân Tích Ngữ Nghĩa

Dựa trên các từ điển Hán-Việt , tên gọi "Sùng Chính" được cấu thành từ hai ký tự Hán:  

  • 崇 (Sùng): có nghĩa là tôn sùng, đề cao, kính trọng, tôn thờ.

  • 正 (Chính): có nghĩa là ngay thẳng, đúng đắn, chính trực, công chính.

Khi kết hợp lại, "Sùng Chính" mang ý nghĩa là "Tôn Sùng Sự Chính Trực" hoặc "Đề Cao Lẽ Phải".

Nền Tảng Triết Học: Đức Hạnh Nho Giáo Như Một Tuyên Ngôn Sứ Mệnh

Ý nghĩa của cái tên này còn sâu sắc hơn khi đặt trong bối cảnh văn hóa. Tại Trung Quốc, có nhiều học viện (thư viện) nổi tiếng trong lịch sử mang tên "Sùng Chính Thư Viện" (崇正書院). Các học viện này được đặt tên "Sùng Chính" để tôn vinh lý tưởng "chính khí" (正氣) của Nho giáo – tức khí phách ngay thẳng, tinh thần chính nghĩa, một khái niệm gắn liền với nhà yêu nước Văn Thiên Tường.  

Việc những người sáng lập ở Sài Gòn chọn cái tên này cho bệnh viện của mình không phải là một sự lựa chọn ngẫu nhiên. Đó là một hành động có chủ đích, thể hiện việc kế thừa một khái niệm triết học sâu sắc. Bằng cách đặt tên cơ sở y tế là "Sùng Chính", các nhà lãnh đạo Bang Hẹ đã đưa ra một tuyên ngôn đạo đức trước toàn xã hội: bệnh viện này sẽ được vận hành dựa trên những nguyên tắc cao nhất về sự chính trực, lòng nhân ái và sự công bằng. Đối với một bệnh viện được xây dựng vì người nghèo , cái tên này chính là một lời cam kết về một sự chăm sóc y tế tận tâm và liêm chính, một lời hứa danh dự được khắc vào chính tên gọi của tổ chức.  

Phần IV: Một Thế Kỷ Chuyển Mình – Hành Trình Của Bệnh Viện Qua Dòng Lịch Sử Hiện Đại

Kể từ khi ra đời, Y viện Sùng Chính đã liên tục biến đổi cùng với những thay đổi lớn của lịch sử Việt Nam, thể hiện qua các lần đổi tên và tái cấu trúc chức năng.

  • Năm 1978: Quốc hữu hóa và Tên gọi mới Sau năm 1975, Bệnh viện Sùng Chính từ một cơ sở tư nhân của cộng đồng đã được chuyển giao cho nhà nước quản lý. Bệnh viện được đổi tên thành Bệnh viện Trần Hưng Đạo Đa khoa và mở rộng quy mô lên 320 giường bệnh. Đây là một phần trong chủ trương chung của nhà nước thời kỳ đó và đánh dấu sự kết thúc vai trò quản lý trực tiếp của Bang Hẹ.  

  • Năm 1985: Sự Ra Đời Của Một Trung Tâm Chuyên Khoa Một bước ngoặt có tính quyết định diễn ra vào ngày 18 tháng 5 năm 1985. Theo quyết định của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Chấn thương Chỉnh hình của Bệnh viện Bình Dân được sáp nhập vào Bệnh viện Trần Hưng Đạo. Tổ chức mới được thành lập với tên gọi  

    Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình TP. HCM. Sự kiện này đã chuyển đổi hoàn toàn chức năng của bệnh viện từ một bệnh viện đa khoa thành một trung tâm y tế chuyên sâu hàng đầu về lĩnh vực chấn thương và chỉnh hình.  

  • Năm 2002 – Hiện tại: Kỷ Nguyên Hiện Đại Năm 2002, Trung tâm được chính thức nâng cấp và đổi tên thành Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình. Kể từ đó, bệnh viện đã không ngừng phát triển, trở thành bệnh viện chuyên khoa sâu hạng I, là tuyến cuối về chấn thương chỉnh hình cho toàn bộ các tỉnh thành phía Nam, với quy mô 500 giường bệnh nội trú và đội ngũ hơn 800 y bác sĩ, nhân viên.  

Bảng dưới đây tóm tắt quá trình phát triển và các lần đổi tên của bệnh viện qua gần một thế kỷ:

Năm

Sự Kiện

Tên Gốc

Tên Mới / Trạng Thái

Ý Nghĩa

1920–1926

Thành lập ban đầu

(Chưa có)

Y viện Sùng Chính

Bang Hẹ thành lập một y viện nền tảng cho cộng đồng.  

1962

Vận động từ thiện

Y viện Sùng Chính

(Quyên góp xây dựng mới)

Ông Từ Nhận Đức vận động và ông Dư Nam Hi hiến đất.  

1971

Khánh thành

Y viện Sùng Chính

Bệnh viện Sùng Chính (100 giường)

Trở thành bệnh viện tư nhân hiện đại phục vụ người nghèo.  

1978

Quốc hữu hóa

Bệnh viện Sùng Chính

Bệnh viện Trần Hưng Đạo Đa khoa

Chuyển từ tư nhân sang nhà nước quản lý, trở thành bệnh viện đa khoa.  

1985

Chuyên khoa hóa

Bệnh viện Trần Hưng Đạo

Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình

Sáp nhập khoa CTCH Bệnh viện Bình Dân, chuyển đổi thành trung tâm chuyên sâu.  

2002

Nâng cấp chính thức

Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình

Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình

Chính thức trở thành bệnh viện chuyên khoa hàng đầu trực thuộc Sở Y tế.  

Kết Luận: Di Sản Bất Diệt Của Sùng Chính

Ngày nay, Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình là một trung tâm y tế kỹ thuật cao, đi đầu trong các phẫu thuật phức tạp như vi phẫu nối chi thể đứt lìa, điều trị ung thư xương hay thay khớp nhân tạo. Nhìn vào sự hiện đại và chuyên môn hóa đó, thật dễ quên rằng nó là người kế thừa trực tiếp tinh thần bác ái của Y viện Sùng Chính năm xưa. Tòa nhà tại số 929 Trần Hưng Đạo, dù tên gọi đã thay đổi, vẫn là một tượng đài sống cho lòng nhân ái và tầm nhìn của cộng đồng người Hẹ. Nó vẫn tiếp tục sứ mệnh chăm sóc con người, thực hiện trọn vẹn lời hứa ban đầu trong một bối cảnh hiện đại.  

Tuy nhiên, di sản này cũng mang một thực tế đáng suy ngẫm. Sau hơn nửa thế kỷ phục vụ không ngừng nghỉ, cơ sở vật chất của bệnh viện đã xuống cấp nghiêm trọng và luôn trong tình trạng quá tải, được xem là một trong những bệnh viện xuống cấp hàng đầu thành phố. Điều này vừa là minh chứng cho vai trò không thể thiếu của bệnh viện, vừa là một biểu tượng cho những thách thức mà hạ tầng y tế công đang đối mặt.  

Câu chuyện về Y viện Sùng Chính, vì thế, không chỉ là một ghi chú lịch sử. Nó là một thiên hùng ca về cộng đồng, bản sắc, lòng nhân ái và khát vọng chăm sóc lẫn nhau. "Chính khí" – tinh thần chính trực và ngay thẳng được gửi gắm trong cái tên Sùng Chính – vẫn tiếp tục vang vọng bên trong những bức tường của bệnh viện, trong từng ca mổ cứu người và trong mỗi sinh mệnh được chữa lành.