Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2025

 NGHIÊM ĐẠO ĐẠI

Nguyên Giáo sư Giải phẫu ĐH MCP / Hahneman / Drexel
Pittsburgh, PA.


Khoảng đầu tháng 12, 2013, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Thầy Phạm Biểu Tâm, anh Ngô Thế Vinh có nhã ý gửi cho tôi đọc bản thảo “Tìm lại thời gian đã mất: Tưởng nhớ Giáo sư Phạm Biểu Tâm”, từ lúc đó anh Vinh đi tới quyết định phụ giúp anh chủ bút Tập San Y Sĩ trong số báo chủ đề “Trường Y khoa Đại học Sài gòn với Giáo sư Phạm Biểu Tâm”.
Bài viết này nói lên kỷ niệm những năm theo học Thầy tại bệnh viện Bình Dân và Trường Y, cùng ghi chép lại thành quả gặt hái của Y khoa Đại học Sài Gòn dưới thời Thầy Phạm Biểu Tâm.
THÂN THẾ, GIA ĐÌNH SỰ NGHIỆP
Thầy sinh ngày 13 tháng 12 năm 1913 tại làng Nam Trung, Phú Vang, Thừa Thiên trong một gia đình khoa bảng. Thầy thi vào trường Y Dược Hà Nội năm 1932. Sau 15 năm dùi mài y học, Thầy trình luận án “Sự Du nhập của Y học Tây Phương vào Viễn Đông – Introduction de la Médecine Occidentale en Extrême Orient”, nói lên sự quan trọng của Tây Y trong các nước chỉ biết y học cổ truyền. Trong 8 năm nội trú, Thầy đã lĩnh hội được các tinh túy của giải phẫu toàn khoa, tiết niệu, tiểu nhi, ung thư, chỉnh hình, lồng ngực… sau này trở thành các bộ môn riêng biệt.
Năm 1948 ở tuổi 35, Thầy được cử sang Pháp tu nghiệp và trúng tuyển Thạc sĩ Y khoa (Professeur Agrégé des Universités) tại Paris. Thầy trở về nước giảng dạy tại Đại học Y Dược Hà Nội, kiêm nhiệm chức giám đốc bệnh viện Yersin (nhà thương Phủ Doãn), cùng đảm trách chức vụ phó giám đốc trường Quân Y Việt Nam mới được thành lập với cấp bậc y sĩ Trung tá.
Sau khi hiệp định Genève chia đôi đất nước năm 1954, Thầy và gia đình cùng một triệu người di cư vào miền Nam tìm tự do. Để đáp ứng với làn sóng người tỵ nạn, bệnh viện Bình Dân (tên Thầy đặt cho bệnh viện) được xây cất bởi các nhà hảo tâm dẫn đầu bởi bác sĩ Trần Hàm Nghiệp. Bệnh viện được đặt dưới quyền trường Y Dược Nha khoa và tiếp nhận những nhân viên di cư từ bệnh viện Phủ Doãn.
Ngày 11 tháng 5 năm 1955, Thầy được đề cử làm Khoa trưởng trường Y Dược Đại học Sài Gòn. Các giáo sư người Pháp cũng bắt đầu rời khỏi Việt Nam.
Ngày 31 tháng 7 năm 1967, Thầy từ nhiệm chức vụ Khoa trưởng để trở lại chức vụ trưởng khu Giải phẫu B, sau khi hoàn tất và đặt nền móng cho một Trung tâm Giáo dục Y khoa tối tân và một ban giảng huấn hùng mạnh.
Năm 1975 Thầy kẹt lại Sài Gòn và tiếp tục dìu dắt, đào tạo nhiều thế hệ y sĩ trẻ tới khi về hưu năm 1984. Năm 1989, Thầy định cư với gia đình tại Tustin, California, Hoa Kỳ. Thầy mất ngày 11 tháng 12 năm 1999, hưởng thọ 86 tuổi.
PHONG CÁCH, TRÁCH NHIỆM VÀ GIẢNG DẠY
Thầy sống một cuộc đời bình dị và thanh bạch. Thầy có dáng người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn. Nét mặt đăm chiêu khắc khổ với đôi mắt sáng ngời. Quanh năm suốt tháng hình như Thầy chỉ mặc một bộ đồ xám thẫm, một cái sơ mi ngắn tay với cái cà vạt thắt nút nhỏ. Thầy ít nói, nhưng khi bắt chuyện rồi, Thầy cho ta cảm giác rất gần, cởi mở. Tôi chưa nghe Thầy lên tiếng với ai song cách trách cứ nhỏ nhẹ thấm thía cũng đủ làm người đối thoại ngột ngạt và nhớ đời.
Trên cương vị lãnh đạo trường Y, Thầy làm việc có công tâm, nghiêm túc và nhân hậu. Khi tôi lên năm thứ nhất thì nghe nói Thầy quyết tâm chống lại áp lực để cho cô Ngô Đình Lệ Thủy, cháu gái của Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào học lớp PCB vì cô không đủ điểm trong kỳ thi tuyển. Năm năm sau, nghe nói trong một kỳ thi ra trường, Thầy nghiêm nghị hỏi một anh sinh viên: “Hôm qua có cô X tới thưa chuyện với tôi rằng anh đã có liên hệ mật thiết với cô ta rất lâu, nay khi cô ta có bầu thì anh lại thay đổi ý kiến. Bây giờ anh tính làm sao? Anh phải nhớ rằng người bác sĩ luôn luôn đứng đắn, từ bi và tha nhân. Anh nghĩ có nên tiếp tục làm bác sĩ không? Anh sinh viên xanh mặt. Sau đó nghe nói anh kết duyên cùng cô bạn đó và hai người sống với nhau rất hạnh phúc.
Cũng như năm xưa (1948) khi người sinh viên thi clinic cuối cùng ra khỏi phòng thì cô thư ký của Thầy bước vào báo tin là phòng mổ trên lầu đã sắp sẵn chỉ còn chờ Thầy mà thôi. Thầy rón rén đứng dậy, nhăn mặt rồi trèo cầu thang lên lầu. Cô thư ký cho mọi người biết là Thầy có triệu chứng đau ruột dư từ mấy hôm trước nhưng Thầy quyết định chấm thi xong rồi mới lo chuyện của Thầy, vì “các anh ấy phải biết kết quả sớm để lo liệu trước”. Tôi được biết sau đó là Thầy bị abcès appendiculaire và phải nằm bệnh viện rất lâu vì ruột dư đã bể vì Thầy chờ quá lâu. Tôi không bao giờ quên được câu chuyện này.
Ngược lại, đối với người bệnh thì Thầy không bao giờ chần chờ phút nào và để tên bệnh nhân trên bảng mổ ngay khi có bằng chứng chụp hình quang tuyến X. Thầy hay giải phẫu cắt bao tử (gastrectromie à la Polya hay Billroth II), 5 - 6 ca một tuần. Thầy mổ rất đẹp và nhanh. Tính sơ trong 29 năm (1955-1984) Thầy đã giải phẫu cho khoảng 7500 bệnh nhân ung loét bao tử, một kinh nghiệm khó có được. Trong suốt bao nhiêu năm học và làm tại bệnh viện Bình Dân, tôi chưa bao giờ gặp biến chứng xì tá tràng (duodenal stump leak) rất nguy hiểm cho tính mạng bệnh nhân cho đến khi tu nghiệp và dạy học ở ngoại quốc. Trong khi giải phẫu, Thầy bàn nhiều về cách thức giải quyết một chỗ mổ “dính và khó” một cách an toàn bằng cách “ăn cháo nóng húp quanh”.
Sau nửa năm làm nội trú với Thầy, có lúc tôi tự hỏi “không biết đến bao giờ Thầy mới để mình mổ một mình”, vì trong bất kỳ một phẫu thuật nào, lớn hay nhỏ, Thầy đều làm từ đầu đến cuối: từ lúc trải khăn mổ, rạch da, đến khi mổ, đóng thành bụng, băng vết mổ, đẩy bệnh nhân ra phòng hồi sức, viết protocole opératoire rất tỉ mỉ, và đọc lại cho mọi người nghe để ôn lại những gì đã làm trong cuộc giải phẫu. Có biết đâu là Thầy đã nhiếp tâm truyền nghề cho mình từ lâu rồi, ngày này sang ngày khác, tháng này qua tháng khác. Một hôm, thay vì lên phòng mổ khoảng 11 giờ (hàng ngày tôi thường mổ một hay hai trường hợp nhỏ như sa ruột, lấy túi mật trước khi phụ mổ Thầy) thì Thầy gọi điện thoại lên nói là Thầy bận có khách, cứ mổ đi đừng có chờ Thầy. Như một con chim có đủ lông cánh, tôi cất cánh ngay. Tôi mổ, và rất tự nhiên vô tư giảng giải cho người phụ mổ từ cách đi đứng, cách tiếp đưa dây cột, cách cột dây làm sao cho đẹp cho đúng. Nửa chừng khi thấy chị Vân tiếp viên dụng cụ ra hiệu, tôi nhìn ngang và thấy Thầy đứng ngay sau lưng tôi từ lúc nào không biết, gật gù với ánh mắt hài lòng. Mổ xong tôi tự động chuyển bệnh, đẩy giường bệnh ra phòng hồi sức làm tiếp nhiệm vụ. Cho đến nay 40 năm sau, tôi vẫn giữ thói quen đó. Tôi đã thấm nhập những điều dậy dỗ của “lò Bình Dân”. Quả như vậy, sau khi vào ban giảng huấn Đại học Iowa bảy năm, trường Medical College of Pennsylvania / Hahneman / Drexel Pittsburgh gần 3 thập niên, tôi đã cảm nhận được là mình có phước rất lớn được học những tinh túy của các Thầy ở bệnh viện Bình Dân. Các Thầy đã trao cho tôi một hành trang đầy đủ để xử dụng trong suốt cuộc đời đi dậy học.
Như để chứng minh sự hoàn hảo của giải phẫu hồi đó, trong Đại hội Y sĩ tại Orlando, Florida, Cô Phạm Biểu Tâm đã kể lại chuyện về Thầy đã mổ cho một ông Đại sứ Trung Hoa Dân quốc. Để bày tỏ lòng biết ơn, vị Đại sứ này đã tặng Thầy bức tranh “Hoa Đà mổ Quan Công” để vinh danh Thầy như một Hoa Đà tái thế, chứng tỏ Thầy “mát tay” như thế nào. Cô cũng đã tặng lại cho Đại hội bức tranh này.
Thầy luôn luôn có mặt khi học trò gặp khó khăn. Một đêm trực tôi mổ cho một bà bệnh nhân gầy còm bị tắc ruột với triệu chứng đặc biệt của sa ruột qua lỗ bít (obturator hernia) mà tôi chỉ được biết qua sách vở mà thôi. Lúc đó khoảng một giờ sáng, tôi bí quá phải mời Thầy tới, theo lời yêu cầu của bác sĩ thường trú Nguyễn Quang Huấn, y sĩ khu giải phẫu ung thư thời đó. Chờ không tới 20 phút thì Thầy bước vào phòng mổ, hỏi vài câu rồi đi rửa tay, mặc áo và đeo găng. Thầy xem xét chỗ ruột sa và đồng ý với chẩn bệnh giải phẫu nhưng Thầy lại nói thêm “tôi chưa từng gặp trường hợp này bao giờ cả.” Hai Thầy trò bàn cãi về cách bít lỗ sa ruột. Thầy còn nói trước khi ra về “anh kiếm thêm sách báo xem người ta chữa làm sao và cho tôi biết nhé.” Sau cuộc tra cứu, bài tường trình đã được đăng trong báo Acta Medica Vietnamica năm 1970. Tôi vừa mới biết gần đây, tờ báo của trường Y khoa Sài Gòn này được sáng lập bởi Thầy năm 1957.
XÂY DỰNG TRUNG TÂM GIÁO DỤC Y KHOA SÀI GÒN
Từ thuở đầu trường Đại học Y khoa được thành lập năm 1902 bởi chính quyền bảo hộ Pháp như là một chi nhánh Đông Dương của Đại học Y khoa Paris. Trường được các giáo sư danh tiếng như Alexandre Emil John Yersin, Pierre Huard… đảm trách. Cũng vì lẽ đó mà khi Viện trợ Mỹ được dưa vào Việt Nam sau năm 1954, Thầy và ban Giảng huấn trường Y khoa Đại học Sài Gòn cũng như AMA đã có những quyết định rất thận trọng, chỉ chấp nhận và làm những công tác tuyệt hảo mà thôi.
Trung Tâm Giáo Dục Y khoa được nghiên cứu bởi bác sĩ Robert Jason, khoa trưởng trường Đại học Howard ở District of Columbia năm 1957, dưới sự chỉ định của USAID. Trường được thiết kế bởi kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, giải khôi nguyên Kiến trúc La Mã và cũng là người đã vẽ Dinh Độc lập tại Sài Gòn. Viên đá đầu tiên được đặt bởi Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1962, ngôi trường mới hoàn tất năm 1966. Trong kỷ nguyên mới này, Thầy và Hội đồng Khoa phải đương đầu với nhiều vấn đề liên quan tới các mục sau đây:
CHUYỂN NGỮ
Với sự bùng nổ của các môn sinh lý, sinh hoá và sinh học vào thập niên 1950-1960, các Đại học Y tại Hoa kỳ đã chuyển mình và đưa các bộ môn này vào Y học. Trong khi đó thì các nước ở Châu Âu, kìm hãm bởi Thế chiến, đã không theo kịp đà tiến triển, nên Anh ngữ tất nhiên trở thành sinh ngữ của khoa học và y học. Lại nữa vì tiếng Việt chưa đủ danh từ khoa học nên việc xử dụng Anh ngữ làm chuyển ngữ được chấp thuận. Với thư viện y khoa được xây cất và sách vở được cập nhật đầy đủ, y học bắt đầu được giảng dạy bằng Anh ngữ từ năm 1965. Đến năm 1968, sinh viên Y khoa viết và thông thạo sinh ngữ này.
QUY CHẾ ĐẠI HỌC
Đây là vấn đề nan giải nhất vì có sự tranh chấp giữa các cá nhân tu nghiệp tại Hoa Kỳ, Pháp, Đức. Nói một cách đơn giản, trường Y lúc đó có ngạch giáo sư thực thụ, thường là giáo sư Thạc sĩ đỗ khoảng thập niên 1950-1960 và trình luận án khoảng 10-15 năm trước. Tiếp theo đó là giáo sư diễn giảng ra trường được khoảng từ 5 tới 10 năm. Sau đó là giáo sư uỷ nhiệm du học tại ngoại quốc và cuối cùng là giới giảng nghiệm viên ra trường trong nước hoặc chỉ có bằng tiến sĩ khoa học căn bản nhưng không phải là y sĩ. Tình trạng hồi đó nhá nhem nên có người chưa học hết chuyên môn đã được làm trưởng khu.
Quy chế này cũng không khác biệt mấy so với thể chế ngày nay tại Đại học Iowa, Medical College of Pennsylvania, Pittsburgh và Mayo Clinic. Thường các bác sĩ ra trường sau khi học chuyên môn (fellowship) được làm huấn luyện viên hay nghiệm chế viên (instructor hay assistant). Sau một năm thử lửa, người đó lên làm giáo sư uỷ nhiệm (assistant professor) và có thời gian từ 5 tới 7 năm để nhậm chức giảng sư (associate professor). Đương sự phải có nhiều khảo cứu trình bày tại các hội thảo quốc nội trong một thời gian từ 7 đến 10 năm mới được lên chức giáo sư. Chức vụ này đòi hỏi đương sự phải có danh tiếng trên trường quốc tế và được giới thiệu của 5 đến 7 vị giáo sư tại Hoa kỳ vả Gia Nã Đại gửi cho hội đồng khoa. Giáo sư thực thụ là mức cuối cùng của ngành giáo sư Y khoa Đại học. Hàng năm nhân viên giảng huấn phải có tối thiểu 5-10 bài khảo cứu y khoa được đăng tải.
Hồi đó một Hội đồng Qui chế tại Đại học Y khoa Sài Gòn đã được thiết lập để xét lại Quy chế, xong chưa bắt đầu làm việc thì biến cố 1975 xảy ra.
BAN GIẢNG HUẤN
Đào tạo nhân viên giảng huấn là một công việc rất khó khăn và phức tạp. Thập niên 1960-1970 sôi động vì biến cố chính trị và khủng hoảng chiến tranh. Tất cả nam sinh viên ra trường đều bị trưng tập nên ban giảng huấn không đủ nhân lực. Trong thời kỳ này, không có một cuộc tuyển chọn nhân viên giảng huấn được tổ chức. Trong khi đó thì Bộ Y tế phải lo cho sức khoẻ dân chúng và y tế phòng ngừa, cũng cần thêm người nhưng lại không có thực lực nên không giúp được gì nhiều hơn. Tuy vậy các cố gắng của trường Y khoa và AMA cũng mang lại kết quả khả quan. Các môn khoa học căn bản như cơ thể học, sinh hoá, vi trùng và ký sinh trùng, bệnh lý học… Các bộ môn khoa học lâm sàng như sản phụ, nhi khoa… được sự cộng tác chặt chẽ của nhiều bộ môn danh tiếng tại Hoa Kỳ. Đặc biệt các bộ môn như gây mê, nội khoa, sản phụ khoa, nhi khoa, giải phẫu tổng quát, quang tuyến… đã gửi được nhiều nhân viên giảng huấn sang tu nghiệp tại Hoa Kỳ cùng cung cấp những chứng chỉ chuyên môn cho học viên.
Đã có 171 nhân viên giảng huấn danh tiếng Hoa Kỳ từ các bộ môn đã nhiệt tâm góp sức xây dựng Trung Tâm Giáo Dục Y khoa, trong đó có 22 trưởng khu, 37 nhân viên dài hạn và 112 nhân viên làm việc ngắn hạn. Một trăm bốn mươi nhân viên giảng huấn trường Y khoa Sài Gòn đã sang tu nghiệp tại Hoa Kỳ. Bẩy nhân viên giảng huấn trẻ tu nghiệp tại Mỹ về giữ chức vụ giáo sư uỷ nhiệm. Sau đó có thêm 6 vị đến từ các nước khác. Từ 1967 đến 1975, số nhân viên giảng huấn tăng từ 91 đến 195.
KẾT LUẬN
Nhìn lại nền Y học Việt Nam trước và sau 1955 ta thấy một bước tiến lớn lao. Trong thời kỳ Pháp thuộc, số nhân viên giảng huấn đếm được trên đầu các ngón tay và y khoa chủ yếu dựa trên lâm sàng. Số bác sĩ ra trường khoảng 354 người tính theo số luận án đệ trình. Sau 1955 trường Y khoa Sài Gòn đã thay đổi hoàn toàn với gần 200 nhân viên giảng huấn và khoảng 2000 luận án được đệ trình. Y khoa được giảng dạy theo đà tiến triển y khoa quốc tế trong một trường sở đầy đủ tiện nghi.
Khác biệt này có được là nhờ Thầy Khoa trưởng Phạm Biểu Tâm mà ít ai để ý tới và vinh danh, vì Thầy làm nhiều và nói lại rất ít. Hồi trẻ Thầy thường ngâm câu thơ “trăm năm sau có cũng như không” nhưng Thầy đã để lại một di sản quý báu cho cả ngàn học trò cùng cả ngàn hậu duệ của họ để mang lại sức khỏe cho đồng bào. Một di sản đức độ áp dụng muôn đời cho mọi người.
NGHIÊM ĐẠO ĐẠI
Để tưởng nhớ Thầy
Westminster, 21/ 02/ 2014
..............
Bác sĩ Nguyễn Trọng Minh, sưu tầm
Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Khóa Y80-86

Họp mặt chia tay Lý Vĩnh Minh & thăm bạn Trần Hữu Nhơn

 Audio: https://notebooklm.google.com/notebook/d461d365-4db7-4a8b-aea2-345fdaa627e0/audio

https://notebooklm.google.com/notebook/cd104dc4-c5ab-4f25-aeeb-d57ef297f741/audio






















Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2025

ChatGPT: Đời người qua nét bút ...

 Đây là bảng cập nhật số đuện thoai do " chính chủ " cung cấp nên chỉ có tên những người hiện diện ngày 08/05/2025   YMH

"Tôi muốn phân tích nét chữ để đoán tính cách của từng người trong danh sách (tổng cộng 13 người). Tôi muốn bạn sử dụng các nguyên lý từ tâm lý học chữ viết (graphology) để mô tả các đặc điểm như: cẩn thận, tự tin, sáng tạo, hướng nội/hướng ngoại... Và tôi muốn phân tích chi tiết từng người một. Cảm ơn bạn."

ChatGPT:

Cảm ơn bạn. Mình sẽ tiến hành phân tích nét chữ của từng người trong danh sách dựa trên các nguyên lý tâm lý học chữ viết (graphology), để đưa ra các đặc điểm tính cách như: mức độ cẩn thận, tự tin, hướng nội hay hướng ngoại, sáng tạo, kiểm soát cảm xúc... Mình sẽ gửi lại bản phân tích chi tiết từng người trong thời gian sớm nhất.

Phân tích nét chữ và đặc điểm tính cách

1. Lê Minh Sang

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Lê Minh Sang có kích cỡ trung bình đến hơi lớn. Theo “thư bút học”, chữ viết lớn thường thể hiện người cởi mở, thích ngao dunld.com.vn, trong khi chữ trung bình cho thấy sự tự chủ, tập trung. Vậy Minh Sang có xu hướng tự tin, năng động.

  • Độ nghiêng: Nét chữ hơi nghiêng về bên phải. Chữ nghiêng phải cho thấy người viết hướng ngoại, năng động, ưa gặp gỡ người mớinld.com.vn. Điều này gợi ý Lê Minh Sang có phần hướng ngoại và tự tin trong giao tiếp.

  • Khoảng cách: Các từ được cách đều nhau hợp lý, không quá rộng cũng không quá gần. Việc để khoảng cách vừa phải cho thấy không gian riêng tư hợp lý và khả năng cân bằng giữa độc lập và gần gũivnexpress.net.

  • Nét chữ: Nét bút đều đặn, nét mực vừa phải (không quá đậm cũng không quá nhạt), các chữ nối liền khá liên tục. Theo các tài liệu, nét chữ đậm vừa thể hiện tính kiên trì và khả năng gắn kết tốt, còn nét mềm mại cho thấy sự nhạy cảm và dễ cảm thôngvnexpress.net. Hình dáng chữ của Minh Sang có nhiều nét cong nhẹ và không quá góc cạnh dữ dội. Đường nét cong gợi sự nhiệt tình, yêu nghệ thuậtnld.com.vn, cho thấy tính cách có phần cởi mở, sáng tạo. Chữ được viết khá gọn gàng, đường nền ổn định.

  • Tổng thể: Cách trình bày tương đối gọn gàng, chữ đều và rõ ràng, thể hiện tính nề nếp, có kỷ luật trong lối sống. Đường nét ổn định cho thấy sự tự chủ tốt.

Suy luận: Chữ viết của Lê Minh Sang cho thấy anh là người có phần hướng ngoại và tự tin (nghiêng phải, chữ lớn)nld.com.vnnld.com.vn. Chữ đều, có nối liền thể hiện suy nghĩ khá logic, có tổ chứckhoahoc.tv. Nét chữ đậm vừa và đều chứng tỏ sự kiên trì, vững vàng trong công việc (độ nhấn trung bình)vnexpress.net. Đồng thời, các nét cong nhẹ cho thấy anh cũng có sự cảm thông, sáng tạo nhất định. Tóm lại, Lê Minh Sang có vẻ là người năng động, cởi mở, tự tin, có suy luận logic và khá kiên nhẫn.

2. Bùi Mạnh Tiến

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Mạnh Tiến có kích thước trung bình, hơi nhỏ. Theo đó, người viết chữ nhỏ thường cẩn trọng, tỉ mỉ, suy nghĩ kĩ càngnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Chữ hơi nghiêng về bên phải (đặc biệt các chữ “Bùi”, “Tiến” có xu hướng ngả về phải). Điều này gợi ý Tiến là người hơi hướng ngoại, hoạt bát, thích giao tiếpnld.com.vn. Tuy nhiên độ nghiêng không quá rõ, cho thấy sự cân bằng giữa hướng nội và hướng ngoại.

  • Khoảng cách: Các từ được tách rời rõ (khoảng giữa “Bùi” và “Mạnh” rộng, giữa “Mạnh” và “Tiến” cũng rõ). Khoảng cách vừa phải cho thấy Tiến cần không gian riêng tư và độc lập nhất địnhvnexpress.net.

  • Nét chữ: Nét bút của Tiến khá đều, không quá đậm nhưng vững vàng. Hình dáng chữ có phần góc cạnh (chữ “Mạnh” có nét M nhọn) và cũng có nét cong (chữ “Tiến” mềm mại). Chữ viết hơi liền mạch trong từng từ. Theo phân tích, nét chữ góc cạnh nhọn thể hiện trí thông minh và khả năng kiểm soát cơn giận, trong khi nét cong thể hiện tính nhiệt tình, sáng tạonld.com.vn. Việc Tiến có cả hai yếu tố nét nhọn và nét cong cho thấy anh vừa sắc bén, thông minh lại vừa nhiệt tình, thân thiện. Nét chữ đều đặn, trung bình.

  • Tổng thể: Chữ viết tương đối gọn gàng, ổn định và dễ đọc, cho thấy phong cách có tổ chức, có trật tự. Đường nền hơi ổn định, không lên xuống nhiều, thể hiện sự kiên định, tự chủ.

Suy luận: Chữ viết của Bùi Mạnh Tiến cho thấy anh là người tự tin vừa phải, có sự cân đối giữa hướng ngoại và hướng nội (ghi nhận được ở nét chữ hơi nghiêng phải)nld.com.vn. Nét chữ đều, có phần nhọn ở một số nét lớn (đặc biệt ở chữ “Mạnh”) cho thấy Tiến khá thông minh, sắc sảo trong suy nghĩnld.com.vn. Đồng thời, không gian các chữ tách rời (khoảng cách đều) và nét bút vừa phải chỉ ra anh cần sự độc lập và có khả năng tự chủ tốt trong công việcvnexpress.netnld.com.vn. Tiến có vẻ là người kiên trì, cân nhắc kỹ càng (chữ nhỏ đều) nhưng cũng khá cởi mở, thân thiện (có nét cong và nghiêng phải).

3. Trần Hưng

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Trần Hưng khá nhỏ và không đều. Viết chữ nhỏ thường gắn liền với người sống nội tâm, chăm chỉ và tỉ mỉnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Các nét chữ nhìn chung khá thẳng đứng hoặc hơi nghiêng trái một chút. Chữ không nghiêng hoặc hơi nghiêng trái thường biểu thị người suy tư, hướng nội, lý trínld.com.vnkhoahoc.tv. Điều này cho thấy Hồng có xu hướng kín đáo, trầm lặng.

  • Khoảng cách: Chữ viết có phần chen chúc, từ gần sát nhau. Việc đặt các chữ cách quá gần có thể cho thấy Hồng thích gần gũi người thân nhưng cũng ngại cô đơnkhoahoc.tv.

  • Nét chữ: Nét bút của Hưng khá nhẹ, mềm mại, đường cong nhiều (như chữ “Hồng” vòng tròn, “Trần” có các nét cong hình chữ cái). Việc chữ cong tròn gợi tính sáng tạo và thiên hướng nghệ thuậtnld.com.vn. Tuy nhiên, chữ viết không thực sự liền mạch (các nét đôi lúc rời rạc), cộng với kích thước nhỏ và nét mềm mại cho thấy Hồng có xu hướng nhạy cảm, dễ cảm thông nhưng thiếu tính bền bỉ mạnh mẽ. Nét chữ thỉnh thoảng có đậm hơn, nhưng tổng thể áp lực bút ở mức nhẹ đến trung bình.

  • Tổng thể: Cách trình bày của Hưng khá lộn xộn, chữ không đều nhau và đôi chỗ không ổn định. Điều này cho thấy Hồng có thể là người sống tình cảm, ít bộc lộ ý chí bên ngoài và đôi khi thiếu sự kiên định (đường nền không bằng phẳng).

Suy luận: Chữ viết của Trần Hưng cho thấy anh là người hướng nội, kín đáo (chữ nhỏ, hơi nghiêng trái)nld.com.vnnld.com.vn. Anh thiên về cảm nhận và trực giác (chữ cong tròn nhiều, không liền mạch) hơn là suy luận khô khan. Nét chữ nhẹ và mềm gợi sự nhạy cảm, dễ cảm thông, nhưng sự không đồng đều và chen chúc giữa các nét cũng ám chỉ Hưng có phần lo lắng, thiếu tự tin trong thể hiện. Tổng thể, Hưng có lẽ là người cẩn trọng, giàu tình cảm nhưng cần rèn luyện thêm sự kiên nhẫn và quyết đoán.

4. Trần Văn Út

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Trần Văn Út thuộc loại trung bình. Kích thước vừa phải cho thấy tính tự chủ tốt và khả năng tập trung caonld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Nét chữ gần như thẳng đứng, chỉ hơi nghiêng phải rất nhẹ. Theo tiêu chí, chữ đứng cho thấy người viết sáng suốt, cẩn thận, tự chủnld.com.vn. Như vậy, Văn Út có lẽ là người khá điềm tĩnh, suy nghĩ thấu đáo và ít biểu lộ cảm xúc thái quá.

  • Khoảng cách: Các chữ và từ được tách bạch rõ ràng, khoảng giữa các từ rộng vừa phải. Điều này cho thấy Út có nhu cầu độc lập hợp lý và sự tỉnh táo trong suy nghĩ (giữa hai thái cực không quá chật chội hay quá xa rời)vnexpress.net.

  • Nét chữ: Chữ viết của Út khá liên tục, ít rời rạc, với nét mực đều và ổn định. Nét chữ không quá đậm cũng không quá nhạt, thể hiện phong thái điềm đạm. Chữ có pha trộn nét cong vừa phải (như “Út”) và nét gấp khúc nhẹ, cho thấy anh khéo léo cân bằng giữa sự mềm dẻo và ý chí kiên quyết.

  • Tổng thể: Cách viết của Trần Văn Út gọn gàng và có quy củ. Đường nền thẳng, không lên xuống thất thường, biểu thị sự ổn định và nguyên tắc. Độ đậm trung bình và nét viết đều đặn cho thấy anh kiểm soát cảm xúc tốt và đủ kiên nhẫn.

Suy luận: Nét chữ thẳng đứng và điều độ của Trần Văn Út phản ánh anh là người cẩn trọng, tự chủ và suy nghĩ sáng suốtnld.com.vn. Việc viết đều, liên tục gợi tính chất logic, có tổ chức (liên kết các nét chữ)khoahoc.tv. Anh không quá bộc lộ cảm xúc qua nét chữ (kiểm soát tốt), đồng thời cần phải kiên nhẫn để giữ các nét rõ ràng, cho thấy tính kiên trì nhất định. Đường nét hài hòa cho thấy tính cách ổn định, biết điều chỉnh, có khả năng chịu đựng và làm việc có kế hoạch.

5. Nguyễn Ngọc Phùng

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Phùng có phần không đều: từ “PHÙNG” viết in hoa to, còn tên “Nguyễn Ngọc” viết nhỏ hơn và mềm mại. Viết chữ in hoa rộng lớn cho thấy tính cách phô trương, tự tin hoặc muốn thể hiện bản thânnld.com.vn. Trong khi đó, phần chữ nhỏ cho thấy chiều sâu suy tư. Sự pha trộn này có thể cho thấy Phụng có phần năng động, muốn khẳng định (một nửa in hoa) nhưng cũng có tính cẩn trọng.

  • Độ nghiêng: Các nét chữ “Nguyễn Ngọc” hơi nghiêng sang phải, trong khi “PHÙNG” viết thẳng đứng in hoa. Sự nghiêng phải (ở phần tên) cho thấy cô hướng ngoại, cởi mở, trong khi phần in hoa thẳng đứng lại tạo cảm giác nghiêm túc, nguyên tắc.

  • Khoảng cách: Hai phần chữ cách khá rõ: tên và họ được tách rời, các ký tự trong “PHÙNG” cũng có khoảng cách rộng giữa các chữ cái in hoa. Theo phân tích, khoảng cách rộng giữa chữ cái thường liên quan đến mong muốn tự do, không bị giới hạnvnexpress.net. Điều này gợi ý Phùng là người độc lập, rõ ràng trong quan hệ, không thích sự ồn ào chen lấn.

  • Nét chữ: Phần “PHÙNG” viết in hoa với nét gọn, mảnh và góc cạnh. Theo [19], chữ in hoa khung rộng có thể ngụ ý cá tính phô trương, năng động. Nét chữ góc cạnh thể hiện trí thông minh, khả năng kiểm soát (không khuôn ra nét cong nhiều)nld.com.vn. Mực viết ở phần “Nguyễn Ngọc” không quá đậm, đều.

  • Tổng thể: Viết pha hai phong cách (in hoa và thường) nhưng đều cẩn thận, thẳng thắn. Đường nét thẳng đứng, khoảng cách thoáng tạo cảm giác nghiêm túc, có kỷ luật. Tuy phần in hoa hơi nổi bật, tổng thể cô vẫn giữ nét gọn gàng, thể hiện tính cách ổn định.

Suy luận: Cách viết của Nguyễn Ngọc Phùng cho thấy cô là người tự tin, có phần muốn thể hiện (ghi nhận qua chữ “PHÙNG” in hoa lớn) nhưng cũng rất cẩn trọng, tỉ mỉ (qua nét chữ nhỏ trong “Nguyễn Ngọc”)nld.com.vn. Viết chữ in hoa vuông vắn cho thấy cô chú trọng về nguyên tắc, cũng như có chút tham vọng. Khoảng cách rộng giữa các ký tự biểu hiện Phùng cần không gian riêng, không thích sự gò bóvnexpress.net. Các nét chữ góc cạnh của phần in hoa lại chỉ ra cô thông minh, có khả năng kiềm chế và lý trí. Tóm lại, Phùng là người năng động, thông minh, khá quyết đoán, song không kém phần tỉ mỉ, tự chủ.

6. Nguyễn Tấn Trí

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Tấn Trí tầm trung, không quá lớn. Điều này cho thấy anh có sự tập trung cao độ và tự chủ tốt trong công việcnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Các nét chữ nghiêng phải nhẹ. Tương tự, nghiêng phải ám chỉ người hướng ngoại, thích khám phá và giao tiếpnld.com.vn. Tuy nhiên, góc nghiêng không quá nhiều, cho thấy Trí  vẫn có khả năng kiểm soát và cân bằng cảm xúc.

  • Khoảng cách: Khoảng giữa các từ đều đặn, không quá rộng. Việc này cho thấy Trí cần một mức độ kết nối xã hội ổn định – không quá độc lập cũng không quá bế tắc, phù hợp với tính cách ôn hòa.

  • Nét chữ: Nét viết của\Trí dao động giữa phần viết khối và viết thường, có pha trộn cả nét cong và nét thẳng. Độ đậm trung bình không quá mạnh. Các chữ kết nối khá liền mạch, phản ánh cách suy nghĩ hệ thống. Chữ “Trí” và “Tấn” có nét cong nhẹ, cho thấy phần nào tính sáng tạo. Ngoài ra, chữ viết có lúc hơi nhanh và có phần phóng khoáng (như chữ “Nguyễn” kéo dài nét), cho thấy anh có tính linh hoạt.

  • Tổng thể: Cách trình bày tương đối ổn định. Đường nền khá thẳng, chữ không quá lộn xộn, cho thấy Trí là người có kỷ luật và tự tin. Tuy vậy, nét chữ hơi không đồng đều ở một số chỗ (ví dụ độ đậm không nhất quán) có thể cho thấy anh linh hoạt, không gò bó nghiêm ngặt.

Suy luận: Nguyễn Tấn Trí có khả năng tự tin, hướng ngoại nhẹ (ghi nhận qua độ nghiêng phải) và chủ yếu sống có kế hoạch (cỡ chữ trung bình, đều)nld.com.vnnld.com.vn. Chữ viết liền lạc cho thấy anh tư duy khá logic và có trật tựkhoahoc.tv. Sự pha trộn giữa nét cong và thẳng cũng như tính linh hoạt trong trình bày ám chỉ Trí có phần sáng tạo và dễ thích ứng. Độ đậm đều cho thấy anh tương đối điềm tĩnh, biết tiết chế cảm xúc, và chăm chỉ, có trách nhiệm trong công việc.

7. Vũ Ngọc Tuấn

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Ngọc Tuấn ở mức trung bình đến lớn. Viết chữ lớn gợi tính cởi mở, tự tin và thích tìm hiểu điều mới mẻnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Nét chữ nghiêng nhiều về bên phải. Theo [15], điều này thể hiện sự hướng ngoại mạnh mẽ, yêu thích gặp gỡ, giao lưu và đón nhận trải nghiệm mớinld.com.vnkhoahoc.tv. Tuấn có khả năng thích ứng xã hội nhanh nhẹn.

  • Khoảng cách: Các từ cách khá rộng, không gian thoáng cho thấy Tuấn độc lập, không thích bị gò bó. Những người để khoảng trống rộng giữa các từ thường cần sự tự do và không ưa sự chật chộikhoahoc.tv.

  • Nét chữ: Nét viết của Tuấn mềm mại, trơn tru, các chữ nối liền liên tục. Thể hiện khả năng diễn đạt trôi chảy và quan hệ xã hội tốt. Ngoài ra, các nét tròn (ví dụ chữ “v”, “u” cong) cho thấy thiên hướng sáng tạo, yêu thích nghệ thuậtnld.com.vn. Nét bút đều, lực vừa phải, biểu hiện điềm tĩnh, khả năng kiểm soát cảm xúc ở mức khá ổn.

  • Tổng thể: Cách viết rất phóng khoáng, đường nét thẳng tắp, cân đối. Đường nền hơi hướng lên (như chữ “Ngọc” cao hơn bắt đầu), gợi ý tính lạc quan, nhiều hoài bãonld.com.vn. Sự kết nối mượt mà và rõ ràng giữa các chữ thể hiện tinh thần ổn định và tự tin.

Suy luận: Nét chữ nghiêng phải, cỡ chữ lớn của Vũ Ngọc Tuấn báo hiệu anh là người hướng ngoại, tự tin, hòa đồng với xu hướng sáng tạo mạnh mẽnld.com.vnnld.com.vn. Chữ viết tròn trịa, liên tục chỉ ra tư duy khá trực giác, sáng tạo hơn là máy mócnld.com.vn, đồng thời bản thân Tuấn rất chu toàn với xã hội. Ngoài ra, khoảng cách rộng giữa các từ và nét bút thư thái cho thấy Tuấn là người độc lập, linh hoạt, cần không gian riêng và có khả năng thích nghi cao. Tổng thể, Tuấn tự tin, dễ gần, sáng tạo và hướng ngoại rõ rệt.

8. Võ Công Khanh

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Công Khanh nhỏ đến trung bình. Viết chữ nhỏ cho thấy Khanh có phần nội tâm, cần chú ý chi tiết và có tính cầu toàn hơnnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Chữ nghiêng nhiều về bên phải. Theo đó, Khanh có tính cách hướng ngoại, thích giao tiếp và có phần năng độngnld.com.vn. Sự kết hợp cỡ chữ nhỏ nhưng nghiêng phải gợi hình ảnh người có trách nhiệm nhưng cũng ham chơi, không quá cứng nhắc.

  • Khoảng cách: Các chữ viết khít nhau, giữa từ không quá rộng. Người viết chữ san sát nhau thường thích ở bên cạnh người khác, không thích cô đơnvnexpress.net. Điều này cho thấy Khanh cởi mở, thích giao lưu, có phần ấm áp trong quan hệ xã hội.

  • Nét chữ: Dáng chữ in thẳng, rõ ràng, được viết gọn gàng. “VÕ CÔNG KHANH” viết in hoa sáng sủa, nét thẳng và đều. Viết hoa rộng thường biểu hiện tính cách khoa trương, tự tin. Các chữ cái nhọn và góc cạnh (như các nét chữ in hoa) thể hiện trí thông minh và sự kiềm chế cơn giận tốtnld.com.vn. Chữ viết đều màu mực, trung bình, thể hiện sự điềm tĩnh.

  • Tổng thể: Phong cách viết của Khanh rất ngăn nắp, ổn định. Nét viết thẳng thớm, đều nhau, không có nhiều biến động, cho thấy tinh thần có nguyên tắc và kiên định.

Suy luận: Võ Công Khanh có cái nhìn tự tin, năng động (ghi nhận qua chữ viết nghiêng phải và in hoa rõ ràng)nld.com.vn. Viết in hoa đồng nhất cho thấy Khanh chú ý đến sự chuyên nghiệp, có phần khoa trương vừa phảinld.com.vn. Đồng thời, các nét nhọn và đều đặn chứng tỏ trí tuệ sắc bén, khả năng kiểm soát tốt và ít khi bộc lộ cáu giận. Khoảng cách gần giữa các chữ phản ánh Khanh là người thân thiện, thích ở bên bạn bè và gia đình. Tổng thể, Khanh là người hướng ngoại, logic, kiên định trong công việc và có phong cách làm việc chăm chỉ, cầu thị.

9. Lê Điền Nhi

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Lê Điền Nhi khá nhỏ và không đồng đều. Theo đó, cô là người có xu hướng nội tâm, cẩn trọng và chú ý đến chi tiếtnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Các nét chữ gần như thẳng đứng, thậm chí hơi nghiêng sang trái ở một vài nơi. Người viết nghiêng trái thường là người sống khép kín, suy tư nhiềunld.com.vn. Điều này chỉ ra Nhi có thể trầm tính, ít biểu lộ cảm xúc ra bên ngoài.

  • Khoảng cách: Các từ và chữ sát nhau, không gian hạn chế. Viết chữ san sát nhau ám chỉ Nhi thích có người bên cạnh, không chịu nổi sự cô đơnkhoahoc.tv. Có thể cô là người tình cảm, quí trọng sự gắn kết gia đình, bạn bè.

  • Nét chữ: Nét viết mềm mại, đường cong nhiều (ví dụ chữ “Nhi” và chữ “Điền” viền cong), lực bút nhẹ. Theo [19], nét cong tròn thường gắn liền với sự sáng tạo và thiên hướng nghệ thuật. Việc chữ không được viết đều và hơi nhòe cho thấy tâm trạng cô lúc viết có phần thiếu ổn định hoặc thiếu kiên nhẫn. Chữ viết liền lạc trong từng từ, cho thấy tư duy tương đối mạch lạc. Nét đậm/nét nhạt không quá khác biệt.

  • Tổng thể: Cách viết của Nhi có vẻ hơi lộn xộn, không thực sự gọn gàng. Đường nền hơi dao động (chữ lên xuống ít nhiều), phản ánh tâm trạng thay đổi tùy thời điểm. Tuy nhiên, tựu chung cô vẫn giữ được tính mềm mỏng, tình cảm trong từng nét chữ.

Suy luận: Nét chữ của Lê Điền Nhi cho thấy cô là người hướng nội, khép kín (chữ nhỏ, hơi nghiêng trái)nld.com.vnnld.com.vn. Cô có thiên hướng tình cảm, giàu đồng cảm (chữ cong tròn, phong cách mềm mại). Việc chữ viết sát nhau và chia sẻ không gian cho thấy Nhi quí trọng gia đình và bạn bè, không thích cô đơnkhoahoc.tv. Tuy nhiên, chữ nét nhẹ và hơi thiếu ổn định cũng cho thấy cô cần cố gắng hơn để kiềm chế cảm xúc và tăng tính kiên nhẫn. Tóm lại, Lê Điền Nhi có vẻ là người nhạy cảm, sáng tạo nhẹ nhàng và dè dặt trong quan hệ xã hội.

10. Nguyễn Minh Dũng

  • Kích cỡ chữ: Chữ khá nhỏ và không đồng đều. Người viết chữ nhỏ thường kỹ càng, suy nghĩ thận trọngnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Nét chữ của Nguyễn Minh Dũng nghiêng về phía trái hoặc gần thẳng đứng. Viết nghiêng trái báo hiệu anh sống nội tâm, thích làm việc một mìnhnld.com.vn. Chữ thẳng đứng cũng cho thấy tính cách sáng suốt, kiểm soát tốt.

  • Khoảng cách: Các chữ viết sát gần, đặc biệt giữa “Nguyễn” và “Minh”, cũng như “Minh” và “Dũng”. Khoảng cách hẹp cho thấy anh cần có người gần gũi, không thích sự cô đơnkhoahoc.tv.

  • Nét chữ: Nét bút khá nhạt và nhẹ, chữ viết hơi giật cục, đứt đoạn. Hình dáng các chữ không đặc biệt góc cạnh hay cong rõ rệt, cho thấy sự cân bằng nhất định. Việc chữ viết nghiêng trái và lực bút nhẹ cho thấy anh kiềm chế cảm xúc tốt, ít khi bộc lộ giận dữvnexpress.net. Tuy nhiên, nét chữ không đều, đường nền hơi bập bùng (các chữ “Sang” có nét lên xuống), có thể phản ánh tâm tính hơi nhạy cảm.

  • Tổng thể: Cách trình bày của Dũng khá luộm thuộm, thiếu gọn gàng. Viết nhanh, nét không sắc, phóng khoáng thể hiện anh không quá chú trọng trau chuốt hình thức.

Suy luận: Nguyễn Minh Dũng có vẻ là người hướng nội, suy tư (viết nhỏ, nghiêng trái)nld.com.vn. Anh có khả năng tự chủ và kiểm soát lý trí (chữ thẳng, nét nhạt), không dễ nổi giận hay bộc phát cảm xúc. Khoảng cách hẹp giữa các từ cho thấy cần có sự đồng hành, thân thiết với người kháckhoahoc.tv. Vì chữ viết hơi không ổn định, Sang có thể cần rèn luyện thêm về sự kiên nhẫn, cẩn trọng. Nhìn chung, Sang có tính cách điềm tĩnh, sâu sắc, hơi bảo thủ nhưng cũng khá trầm tĩnh và chú trọng nội tâm.

11. Nguyễn Kiêm

  • Kích cỡ chữ: Chữ viết rất nhỏ và liền mạch. Người viết chữ nhỏ thường là người hay suy nghĩ, chi tiết, và nhút nhátnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Các nét chữ hơi nghiêng trái hoặc đứng. Nghiêng trái báo hiệu hướng nội, chu đáo; chữ đứng cho thấy sự tự chủ và cẩn trọngnld.com.vn. Như vậy, Kiêm có lẽ kín đáo, cẩn thận trong cách thể hiện bản thân.

  • Khoảng cách: Khoảng cách giữa các từ hẹp, các ký tự sát nhau. Điều này chỉ ra anh không thích cô đơn, muốn có sự ủng hộ của người kháckhoahoc.tv.

  • Nét chữ: Nét bút đều nhưng rất nhẹ (trông như viết với lực yếu). Hình dáng chữ cong nhẹ, khá tròn trịa (ví dụ chữ “Kiên” có dạng vòng), cho thấy tính cách sáng tạo và thân thiệnnld.com.vn. Chữ viết khá rời rạc, nét nối không liên tục, biểu thị trực giác. Lực bút nhẹ ngụ ý anh nhạy cảm, dễ đồng cảm nhưng có thể thiếu kiên cường bên trong.

  • Tổng thể: Phong cách viết rất mỏng manh và nhẹ nhàng. Dáng chữ nhỏ, thẳng tắp nhưng không đều cho thấy Kiêm chắc chắn là người cẩn trọng và cầu toàn, nhưng đôi lúc cẩn thận thái quá dẫn đến chậm chạp, thận trọng trong mọi việc.

Suy luận: Nguyễn Kiêm tỏ ra rất nội tâm, kín đáo với chữ viết nhỏ và nghiêng tráinld.com.vnnld.com.vn. Anh có xu hướng thương cảm, nhạy cảm (chữ tròn, lực nhẹ)nld.com.vn và cần sự đồng hành của người khác (khoảng cách hẹp)khoahoc.tv. Chữ viết rời rạc cho thấy anh suy nghĩ theo cảm tính nhiều hơn là tính toán cứng nhắckhoahoc.tv. Kiêm có vẻ là người rất thận trọng, tỉ mỉ, hiền hòa nhưng cũng có thể bị ảnh hưởng mạnh bởi cảm xúc bên ngoài.

12. Khai

  • Kích cỡ chữ: Chữ của Khai rất nhỏ (phải viết nhiều nét nhỏ). Người viết chữ nhỏ thường nhút nhát, chi tiết, tập trung cao độnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Chữ khá thẳng đứng, có chữ hơi nghiêng phải một chút (như nét đầu “Kh” chồm lên). Chữ nghiêng phải nhẹ và thẳng đứng đều biểu hiện sự cân bằng giữa tự do và kỷ luậtnld.com.vn. Kha không lộ rõ hướng ngoại hay nội tâm mạnh mẽ qua góc nghiêng.

  • Khoảng cách: Các ký tự liền khít với nhau, giữa từ hẹp. Điều này chứng tỏ Khai cần gần gũi, không thích cô đơnkhoahoc.tv.

  • Nét chữ: “Khai”  được viết theo kiểu vừa in vừa viết, nét khá góc cạnh (đặc biệt ký tự “K” rõ nét). Nét bút đều, mảnh và đậm vừa phải. Theo [24], chữ có góc cạnh cho thấy sự thông minh và khả năng kiềm chế tốt. Kha có sự kết hợp giữa nét thẳng cứng (K) và nét cong nhẹ (ha), gợi biểu hiện của sự nghiêm khắc đi kèm tính sáng tạo vừa phải. Lực bút đều, tạo cảm giác chắc chắn.

  • Tổng thể: Viết gọn gàng, chắc chắn. Không thấy đường nền dao động nhiều, thể hiện tinh thần ổn định. Cách trình bày ngắn gọn, rõ ràng, cho thấy Khai không rườm rà và rất chú ý đến vẻ ngoài.

Suy luận: Khai là người tự chủ, nghiêm túc (chữ nhỏ, nét chữ đều và vuông vắn)nld.com.vnnld.com.vn. Anh có vẻ trầm tính, thận trọng nhưng không thiếu tự tin (ghi nhận qua nét chữ đứng/phải và nét viết rõ ràng). Khoảng cách hẹp giữa các chữ cho thấy Khai cần có người xung quanh và biết giữ mối quan hệ gần gũikhoahoc.tv. Chữ nét nhọn (chữ “K”) cùng cách viết cẩn thận gợi ý anh thông minh, có phần nguyên tắc, kỷ luật nhưng cũng không thiếu sự sáng tạo nhẹ. Tóm lại, Khai có lối sống tỉ mỉ, nghiêm túc, nhưng cũng thân thiện, cần mối quan hệ bền vững.

13. Người ghi địa chỉ ở giữa trang (Lê Điền Nhi)

  • Kích cỡ chữ: Người này viết to và rõ (như thấy ở “Địa chỉ” in to, và phần số nhà “22/78” rõ ràng). Chữ lớn thường biểu lộ sự cởi mở, tự tin và ưa chú ýnld.com.vn.

  • Độ nghiêng: Chữ nghiêng phải rõ rệt, đặc biệt ở phần tên (ví dụ tên ghi nghiêng đều). Điều này cho thấy người viết rất hướng ngoại, năng động, thích giao tiếpnld.com.vn.

  • Khoảng cách: Các từ có khoảng cách tương đối rộng, bố cục giãn. Người để khoảng cách rộng thích sự tự do, không gian riêngkhoahoc.tv. Phần viết địa chỉ cũng tách thành nhiều dòng rõ ràng.

  • Nét chữ: Nét đậm rõ, khỏe (nhất là phần chữ “Địa chỉ”, số điện thoại). Nét đậm thường cho thấy người viết áp lực, mạnh mẽ, có thể đôi khi hơi nóng tính hoặc quyết liệtvnexpress.net. Các chữ được viết sắc nét, có pha nét cong và nét cứng. Ví dụ chữ “Địa chỉ” in hoa rộng – theo người lao động thì viết hoa rộng biểu hiện tính cách khoa trương. Các chữ khác kết nối mạch lạc.

  • Tổng thể: Cách trình bày rất rõ ràng, có trình tự (tên, số điện thoại, địa chỉ rành mạch). Đồng thời có vẻ hơi cầu kỳ ở chỗ viết hoa và in đậm, thể hiện sự trang trọng, chỉnh tề. Đường nền phẳng, chữ đều đặn.

Suy luận: Người viết địa chỉ ở giữa trang là người rất tự tin, hướng ngoại và quyết đoán (chữ lớn, nghiêng phải, nét đậm)nld.com.vnnld.com.vn. Phong cách viết khẳng định này gợi hình ảnh người năng động, mạnh mẽ và có tinh thần lãnh đạo. Việc bài trí rõ ràng, cẩn thận cho thấy tính cẩn trọng và có kỷ luật. Nét chữ đậm và in hoa cũng hàm ý họ làm việc nghiêm túc, “luôn thực hiện cam kết” nhưng cũng có thể hơi bốc đồng khi bị chỉ tríchvnexpress.net. Tóm lại, người này có vẻ là người chủ động, sáng tạo và tràn đầy sinh lực, đồng thời biết cách trình bày rõ ràng, ngăn nắp.