Mong ước của chúng tôi là nơi tập hợp nhiều thông tin nội bộ lớp Y Khoa Saigon 1966 - 1973 ở Vietnam. Mọi bài vỡ xin gửi về: ykhoasaigon6673@gmail.com . Chân thành cám ơn.
Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012
Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012
Hat Cho Nhau Nghe 2006 mới tìm được
Hop mat gom co Nguyen Thanh Nam "Ong Dao Dua", Dinh Van Khai, Nguyen Kiem, Nguyen Van Gioi,Pho Duc Man, Ly Vinh Minh, Le Dien Nhi va Le Minh Sang .Ai cung len ca hat vi o day co muc Hat Cho Nhau Nghe
Chủ Nhật, 22 tháng 4, 2012
Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012
Hội ngộ 2006 ở Nam Cali/Chương trình giáo dục y khoa liên tục (CME)
Thứ Tư, 1 tháng 2, 2012
Ông già kể chuyện đời xưa: Vài kỷ niệm của một cựu sinh viên trường thuốc Hà Nội
Ông già kể chuyện đời xưa:
Lời nói đầu: N.L.V. |
Trường nầy được trường Y Khoa Đại học Paris (Faculté de Médecine de Paris) đỡ đầu nên Paris gởi qua một giáo sư để làm giám đốc trường và hằng năm gởi qua Hà Nội một giáo sư để chủ tọa cuộc thi ra trường, trình luận án và tuyên thệ Hippocrate cho các tân khoa bác sĩ Việt Nam. Vị giáo sư cuối cùng được Paris cử qua Hà Nội là giáo sư Pasteur Valéry Radot, một danh sư của Y Khoa Đại học Paris và là cháu ngoại của nhà thông thái Louis Pasteur.
Đến năm 1940, sau khi Pháp thua trong Đệ nhị Thế chiến và bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, sự liên lạc giữa Đông Dương và " mẫu quốc " Pháp không còn dễ dàng nữa thì Trường Thuốc Hà Nội được tự trị với tên chính thức là " Faculté Mixte de Médecine et de Pharmacie de Hanoi ( Y khoa Đại học Hà Nội ) và ông giám đốc trường thuốc được đổi danh xưng là Khoa trưởng Y khoa ( Doyen de la Faculté de Médecine ).
Từ khi tôi bước chân vào trường ấy ( 1938 ) cho đến khi ra trường ấy với danh hiệu trên không còn nữa (9-3-1945), ông giám đốc trường thuốc rồi khoa trưởng y khoa cũng đều là ông Henri Gaillard, một giáo sư chuyên về môn ký sinh trùng học (parasitologie) của Paris gởi qua để điều khiển trường.
Thầy Gaillard rất là " parisien " lúc nào cũng ăn mặc diêm dúa, ăn nói văn hoa. Ngoài việc điều khiển trường về mặt hành chánh ( lúc ấy sinh viên có việc về hành chánh thì liên lạc với ông Sành ), Thầy còn dạy hai môn là Ký sinh trùng học (Parasitologie) và Vi trùng học (Bactériologie) cho sinh viên năm thứ 3 có anh Bửu Lư rồi anh Lê Khắc Quyến (sau nầy là khoa trưởng Y khoa Huế) giúp. Cạnh văn phòng hành chánh của Thầy ở trên lầu I của Trường còn có một phòng thí nghiệm ký sinh trùng (Lab. of Parasito) trong đó Thầy nuôi đủ loại muỗi truyền bệnh sốt rét (malaria). Để nuôi (cho ăn) các muỗi ấy Thầy có mướn một người lao công hằng ngày mấy lần thọc tay vào mỗi lồng muỗi để cho muỗi " đốt " cho đến khi no.
Thường thường cours của Thầy bắt đầu vào lúc 1 giờ rưỡi trưa (1:30 pm) tức là giờ ngủ trưa ở Việt Nam, mà đề tài ký sinh trùng không có gì hấp dẫn, giọng của Thầy giảng bài lại đều ru ru, rất êm tai, nên ... thỉnh thoảng nghe Thầy đập gậy lên bàn một cái và hét : " Mais réveillez-vous, voyons " , thì biết cả lớp đã ngủ gục.
Đặc biệt với Thầy là cuối năm đi thi, Thầy hỏi nhiều câu không biết đâu mà rờ. Thí dụ :
Có một năm Thầy hỏi anh Hoàng ( bác sĩ Hoàng là anh của ông Lộc, sau này là Thủ rướng VNCH hồi ĐNCH) như sau:
Hỏi: Quel est l'animal le plus dangereux que vous connaissez ? (Anh biết con thú nào là nguy hiểm nhứt ? )
Trả lời : Le tigre, monsieur. (Thưa Thầy, là con cọp)
-: Non, plus petit que ça (Không, nhỏ hơn thế)
-: La panthère, monsieur (Thưa Thầy là con beo)
-: Non, beaucoup plus petit; un tout petit animal ( Không, nhỏ hơn nhiều, một con vật nhỏ xíu hè)
-: Le serpent, monsieur (Thưa Thầy, là con rắn)
-: Mais non, je dis un animal à quatre pattes non pas un serpent (Không mà, tôi nói một con thú 4 chân chớ không phải con rắn).
Dần dần thì là ... con chuột; vì thầy muốn hỏi lối truyền nhiễm của bệnh dịch hạch (peste,plague). Mà hỏi như vậy đó.
Với tôi thì Thầy hỏi : Qu'est-ce que vous sentez quand un serpent vous pique ? (Khi anh bị rắn cắn thì anh thấy cái gì ?)
Trả lời : Une douleur, monsieur (Thưa Thầy, tôi thấy đau)
Thầy đưa hai tay lên, nói một cách chán nản: Mon Dieu, vous vivez dans un pays infesté de serpents, vous ne pouvez pas faire un pas sans risquer de rencontrer un serpent et vous ne savez pas ce que vous sentez quand un serpent vous pique (Trời ơi, anh sống trong một xứ đầy là rắn; bước đi một bước là có thể gặp rắn mà anh không biết anh thấy cái gì khi bị rắn cắn sao ?)
Rốt cuộc là Thầy muốn mình phân biệt hai loại nọc rắn độc: một loại thuộc loại rắn lục (Pit viper venon) có tác dụng vào máu, và một loại thuộc rắn hổ (cobra venon) có tác dụng vào thần kinh. Mà hỏi như vậy đó. Nhưng thầy không ác, rất " fair " hỏi dần dần để đưa mình đến chỗ Thầy muốn, rồi nếu nói được thì cho đậu.
Câu chuyện bên lề một :
Lúc ấy vào niên khóa 1942-1943 thì phải, một hôm đang theo thầy Massias làm round ở Khu nội thương của Bệnh viện Bạch Mai, thì thấy khoa trưởng Gaillard đến (một chuyện lạ ít khi có). Cùng đi với Thầy có một người Việt Nam tuổi độ sáu mươi, lùn lùn, có vẻ sang trọng, ăn mặc chỉnh tề. Khi đến gần nhóm sinh viên thì Thầy Gaillard nói "Voici Dr. Thinh de Sai Gòn; il était déjà interne quand j'étais encore stagiaire " (Đây là bác sĩ Thinh ở Sài Gòn; ông nầy khi trước đã là nội trú khi tôi còn là sinh viên tập sự). Nghe như vậy bọn sinh viên nể quá, kính cẩn chào; bác sĩ Thinh không nói gì hết, cười cười, cúi đầu chào lại, có vẻ rất hiền hậu. Thầy Massias trong buồng bệnh nhân đi ra, ba người chào hỏi nhau, rồi kéo nhau lên văn phòng.
Đây là lần đầu tiên, tôi được gặp bác sĩ Thinh, một đồng nghiệp đàn anh danh tiếng ở miền Nam và cũng là bố của chị Irène Thinh, đầm lai, cao lớn hơn bố, khá đẹp, đang học Dược.
Về sau lối năm 1946, chính bác sĩ Thinh đây sẽ là Thủ tướng của Nam kỳ cuốc " Cộng hòa Cố chân chiên " (République de Cochinchine); và sau khi nhận thấy mình đã bị Pháp lừa và lợi dụng, ông đã tự tử bằng cách thắt cổ với một sợi giây điện, trên bàn viết gần đó có quyển sách thuốc còn mở ra ở trang nói về " Thắt cổ " (Pendaison). Nên để ý rằng ông là một bác sĩ mà không dùng độc dược để tự tử cho êm, mà lại dùng dây để thắt cổ như người " tay ngang " (có nhiều ý nghĩa); trước đó còn có can đảm và bình tĩnh để đọc lại sách thuốc xem cái gì sẽ xảy ra cho thân thế mình. Thương hại cho một đồng nghiệp đàn anh lỗi lạc (thời ấy Annamite-Indigène mà đậu được Interne des Hôpitaux de Paris không phải là vừa) thật thà ra làm chánh trị, bị lường gạt và lợi dụng đến nỗi phải quyên sinh. Không biết chị Irène về sau ra sao.
Câu chuyện bên lề hai:
Thầy Gaillard có một " cô mèo " Việt Nam trẻ và đẹp tên là cô Lý. Thầy thuê cho một căn nhà ở đường Duvigneau gần Nhà Diêm (Société Indochinoise des Allumettes) trong xóm có nhiều sinh viên Nam kỳ. Thì ... quả y như rằng ... cô Lý có một " cậu mèo " tên là anh Tấn, người Nam, con nhà giàu, quê ở Rạch Giá, đang học Luật. Mỗi khi thầy đến thăm " mèo " (thường cô Lý được báo tin trước để ... " chuẩn bị ") thì anh Tấn tạm " tản cư " qua nhà bên cạnh. Một hôm chắc Thầy " cao hứng lắm " nên đến bất thình lình mà không có báo trước nên ... đụng đầu. Anh Tấn kể chuyện lại như sau: " Tao đang nằm trong phòng, nghe tiếng xe hơi đậu lại; tao chồm lên nhìn qua cửa sổ thì thấy ổng đã xuống xe rồi; tao sợ quá vội vàng ôm đồ chạy; ra đến cửa thì gặp ổng bước vào. Thấy tao ổng hơi ngạc nhiên nhưng bình tĩnh nói : " Bonjour jeune homme ". Tao cũng cúi đầu chào " Bonjour monsieur " rồi chuồn luôn ". Tụi nầy nghe chuyện cười quá.
Về sau, sau khi Việt Nam độc lập thì Thầy Gaillard về Pháp được phục hồi nguyên chức vị cũ là giáo sư Y khoa Đại học Paris, và không biết Thầy mất lúc nào.
Còn cô Lý thì hình như được Quốc trưởng chiếu cố nên vẫn sống phây phây trên nhung lụa ở Đà Lạt.
Chỉ có anh Tấn thì tội nghiệp không đỗ đạt gì hết; đến năm 1961 thì tôi có gặp lần cuối cùng lang thang ở Sài Gòn, nghèo, đói, xì ke. Còn đâu thời oanh liệt của một sinh viên trường Luật mà " chim" được " mèo " của ông khoa trưởng Trường Thuốc !
Tái bút :
Tôi không rõ Trường Thuốc Hà Nội thành lập năm nào, chỉ thấy trong quyển sách " Việt Nam Pháp Thuộc Sử 1884-1945" , tác giả Phan Khoang, 1961, ở trang 441, có đoạn nguyên văn như sau: "Trường đại học ra đời thời Toàn quyền Paul Beau (1897-1902) bị Toàn quyền Klobukowski (1902-1908) bãi bỏ, được Toàn quyền Albert Sarraut (1911-1919) tổ chức lại năm 1918, thật ra chỉ gồm những trường chuyên môn đào tạo một hạng công chức phụ tá người Pháp trong các công sở. Trường Cao đẳng Y Dược mở trước hết, sau thêm trường Cao đẳng Sư phạm, Công chánh, Canh nông, Thú y, Thương mãi, Cao đẳng mỹ thuật. Và, như cụ Phan Khoang nói, lúc ban đầu Trường Thuốc Hà Nội chỉ đào tạo ra y sĩ Đông Dương (Médecins Indochinois) theo một chương trình học 4 (hay 3 ?) năm, để thành những công chức phụ tá cho các bác sĩ y khoa Pháp trong các bệnh viện ở Đông Dương.
Rồi về sau trường nầy mới đào tạo ra y khoa bác sĩ (docteur en médecine) với chương trình học 7 năm và luận án, tôi không biết kể từ năm nào, chỉ thấy trong quyển sách " Danh sách Y sĩ Việt Nam 1989 " của hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do xuất bản ở Montréal, Canada ở trang 114, có ghi hồi năm 1935 (là năm xa nhứt có được tài liệu), có 12 luận án y khoa.
Những chuyện tôi kể ở đây là những chuyện ở Trường Thuốc Hà Nội từ 1938 đến 1945.
Đến năm 1945, sau khi quân đội Nhật Bổn đảo chính Pháp ở Đông Dương đêm thứ sáu 9-3, thì Trường Y Dược khoa và Đại học đóng cửa.
Ông khoa trưởng và các giáo sư phải chịu cùng một số phận với các Pháp kiều khác là bị Nhựt bổn bắt nhốt làm tù binh.
Độ hai tháng sau (lối tháng 5-1945) dưới thời Đế quốc Việt Nam với Hoàng đế Bảo Đại và Thủ tướng Trần Trọng kim, thì Trường Y Dược khoa mở cửa lại với cụ Hồ Đắc Di làm khoa trưởng, và tiếp tục luôn như thế dưới thời Việt Minh, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hoạt động được hơn một năm, thì đến ngày 19-19-1946, toàn dân kháng chiến chống Pháp giành độc lập, thì cụ Hồ Đắc Di và Trường cũng như mọi cơ sở khác phải di tản ra chiến khu (Việt Trì, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn. (Lần sau cùng tôi gặp cụ Di là ở Bắc Kạn vào mùa thu năm 1947).
Trong lúc đó thì Pháp đã trở lại Hà Nội, và năm 1947 thì Trường Y Dược khoa Hà Nội hoạt động trở lại và được chia ra làm hai cơ sở: một ở Hà Nội (được gọi là section de Hanoi) với Thầy Huard làm khoa trưởng và một ở Sài Gòn (được gọi là section de Saigon) với Thầy Massias làm khoa trưởng.
Ở Sài Gòn, trường Y Dược khoa được đặt tại một tư thất (villa) ở đường Testard (sau đổi tên là đường Trần Quí Cáp). Tư thất nầy khi trước là của chị bác sĩ Henriette Bùi (con của cụ Bùi Quang Chiểu, một chính trị gia có tiếng ở miền Nam).
Nên để ý rằng lúc ấy trường Thuốc Sài Gòn không có tên là Faculté de Médecine de Saigon mà có tên chính thức là Faculté Mixte de Médecine et de Pharmacie de Hanoi (Section de Saigon) làm cũng như thể là các thầy Pháp có linh cảm trước (trước 28 năm) rằng Hà Nội sẽ chi phối Sài Gòn ?)
Sau đó dưới thời Đệ nhứt Cộng Hòa (vào thập niên 60) nhờ sự viện trợ của Mỹ, một trường Y khoa Đại học nguy nga được xây cất trong vùng Chợ Lớn như chúng ta đã biết ... và đã phải vĩnh biệt.
B.s. Nguyễn Lưu Viên
tháng 9-1990
Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2012
Bài đọc trước mộ Cha Lichtenberger năm 2007 của BS Phan Thị Mai (YKSG67-74)
Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012
“Lương y như từ mẫu” (Thành ngữ Việt Nam)
Ý của câu nói là người thầy thuốc giỏi cũng ví như người mẹ hiền. Mẹ nuôi con từ lúc sơ sinh đến khi trưởng thành với tình thương yêu vô bờ bến. Không quản ngại bất cứ khó khăn, tấm lòng của mẹ đối với con bát ngát như biển rộng Thái Bình Dương. Người thầy thuốc chẳng những cần giỏi, mà còn cần tốt và nhân ái đối với người bệnh.
Nghĩ cho cùng, thuở xưa hay ngày nay, bao giờ cũng cần hai yếu tố quan trọng như vậy: người y sĩ cần giỏi và tốt.
Trở lại chuyện ngày xưa, còn một câu khác tương đối ít người biết hơn:
“Lương y đa kỳ tật” (Thành ngữ Việt Nam)
Câu này có nghĩa là thầy thuốc giỏi hay có “tật”. Chữ “kỳ tật” ở đây có nghĩa là nét đặc biệt. Có lẽ người xưa muốn ám chỉ những thầy thuốc giỏi thường khác biệt với những thầy thuốc bình thường?
Có thể người thầy thuốc dám dùng những phương cách chữa bệnh táo bạo, những thang thuốc đặc biệt không có trong sách vở và lại thành công trong việc chữa bệnh. Nhưng thời nay có mấy người thầy thuốc dám làm những chuyện như vậy?
Nhưng cũng có thể câu thành ngữ ám chỉ người y sĩ đặc biệt khác người ở chỗ làm được những chuyện khác ngoài phương diện y khoa như viết văn, làm thơ...
Một thí dụ rất rõ ràng là người giáo sư y khoa quá cố Trần Văn Bảng.
Vị thầy đáng kính phục Trần Văn Bảng có tiểu sử tóm lược như sau:
-tốt nghiệp: tiểu và trung học trường Bưởi, đại học y khoa Hà Nội.
-1936: nội trú bệnh viện.
-1940: bắt đầu dậy ở trường đại học y khoa, giảng viên đại học y khoa Hà Nội.
-1954: di cư vào Nam, tiếp tục dậy sinh viên tại đại học y khoa Sài Gòn đến mãi sau 1975 khi qua định cư ở Pháp.
-1956: tu nghiệp về bệnh Cùi ở Paris.
-Quản Đốc Chương Trình Bài Cùi và Trưởng Phòng Cùi Học tại Viện Pasteur Sài Gòn trong nhiều năm.
-Trưởng Khu Bệnh Truyền Nhiễm tại Bệnh Viện Tâm Thần Chợ Quán (bệnh viện của người điên).
Những thành tích đáng kể trong lãnh vực y khoa của thầy Trần Văn Bảng:
-Huy chương vàng Y Khoa Hà Nội 1940.
-Huy chương vàng bộ y tế Sài Gòn.
-dịch quyển Introduction à l’étude de la médecine expérimentale của Claude Bernard.
-soạn cuốn Nomenclature des recherches médicales au Sud-Vietnam.
-Prix Marchoux cùi học 1962.
-viết trên 30 bài viết về bệnh cùi.
Bình thường, đa số ai cũng sợ người cùi và người điên, nhưng giáo sư Bảng thì khác. Sau đây là lời thầy Trần Văn Bảng tâm sự trong cuộc phiếm luận tay ba về Tính Đam Mê với họa sĩ kiêm y sĩ Dương Cẩm Chương và bác sĩ giáo sư y khoa Nguyễn Hữu:
“ ...Sở dĩ tôi “mần” bệnh cùi là thấy khoa này nó hấp dẫn về bình diện nhân đạo của nó. Người cùi bị thành kiến sai lầm kỳ thị, hắt hủi, nên ngoài công tác điều trị ta còn phải cứu trợ tinh thần, phục hồi nhân vị cho họ. Đám người cùi đông đảo ở Việt Nam là một loại người đau khổ nhất trên đời. Tôi cùng với cộng sự viên, và những người kế tiếp, xây dựng Chương Trình Bài Cùi đã lượm được khá nhiều kết quả, cho đến ngày 30-04-1975, thì chương trình bị dẹp, người cùi lại trở về hoàn cảnh cũ...”
(Thư Mục Y Giới Văn Thi Nghệ Sĩ, trang 26 / Bằng Vân Trần Văn Bảng)
Miệt mài với những bệnh nhân khùng điên hay bị cùi và không thắc mắc mà còn vui mừng khi được người khác đặt tên là “Thầy Cùi”, cùng lúc thầy Bảng vẫn mê mải làm thơ. Thi hữu Lương Danh Môn đã trêu ghẹo thầy Bảng bằng hai câu sau:
Đã chót say mê về Bệnh Hủi
Lại còn vớ vẩn với Nàng Thơ!
Thầy là một nghệ sĩ, theo đúng nghĩa của chữ nghệ sĩ. Y khoa và văn nghệ đã pha trộn trong đầu óc người y sĩ. Những bài học thầy giảng dậy cho sinh viên đều có văn thơ đi kèm.
Dạy sinh viên y khoa về môn Triệu Chứng Học (Physical Diagnosis), ở bài học đầu tiên về Đau Nhức, thầy đọc ngay:
Đau như đòn ghen
Rát như lửa bỏng
Một thí dụ khác khi thầy Bảng giảng dậy về đả chẩn tức là cách thức gõ để khám bệnh (percussion). Lúc bác sĩ khám bệnh, gõ vào lồng ngực người có nước trong màng phổi (pleural effusion) sẽ thấy tiếng đục và gõ vào lồng ngực người bị bệnh nhiễm khí trong màng phổi (pneumothorax) sẽ thấy tiếng trong, thầy Trần Văn Bảng đã ví von câu thơ Kiều:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
Có khi đang dạy học, thầy đọc cả một bài thơ vừa sáng tác cho sinh viên nghe.
Phải nói ngoài y khoa, thầy Bảng lại có rất nhiều hoạt động văn nghệ.
Khi viết văn, làm thơ ngoài tên Trần Văn Bảng, thầy còn dùng những bút hiệu khác nhau Bằng Vân, Lưu Văn Vong và Sĩ Ngông.
Giáo sư Trần Văn Bảng đã từng là:
-chủ biên tập san Y Khoa Sài Gòn.
-trợ bút nội san trường Bưởi.
Những tác phẩm văn nghệ của giáo sư Bảng:
-Mảng Vui, Sài Gòn 1971.
-Mếu Cười, Texas 1979.
-Huyền Thoại Tình Và Thơ, Toronto 1981.
-Duyên Thơ Tình Bạn, Texas 1985.
-Thơ Dịch Bằng Vân - Sợi Tơ Lòng, Paris 1995.
-Một số tập thơ nhỏ:
. Sống Đẹp Chết Đẹp.
. Thơ Tục Cổ Kim (cộng tác với Quê Hương).
. Thơ Khóc Bạn.
-Một số khá nhiều bài viết trong các báo chí tập san ngành y khoa.
-Thư Mục Y Giới Văn Thi Nghệ Sĩ.
Đây là tác phẩm cuối cùng và lớn nhất. Giáo sư Trần Văn Bảng đã sưu tầm và giới thiệu khoảng gần 80 người, theo ý thầy, là những văn thi nhạc sĩ trong các ngành y dược nha khoa Việt Nam với đa số là y sĩ. Nhắc đến trong quyển sách, kể từ thuở xa xưa có những thầy lang nhà nho như Hải Thượng Lãn Ông (1720-?), Nguyễn Đình Chiểu (1882-1888), Phan Văn Trị (1830-1910)... qua những người tương đối “mới” nhưng cũng đã khuất như Phạm Hữu Chí (1905-1938), Nguyễn Tuấn Phát tự Anh Tuấn (1913-1981), Nguyễn Hữu Phiếm (1910-1976), Lê Khắc Quyến (1915-1978)... đến mãi những nghệ sĩ của các thế hệ y khoa “trẻ” gần đây như Ngô Thế Vinh, Trần Xuân Dũng, Nguyễn Trùng Khánh, Nguyên Bích, Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, Công Huyền Tôn Nữ Tường Vi... Thầy sửa soạn, viết quyển sách này trong nhiều năm, cho đến những ngày cuối của cuộc đời. Một người y sĩ nghệ sĩ già, tóc trắng như sương, cặm cụi viết về những người... khác trong những giờ phút cuối của cuộc đời quả là một hình ảnh cảm động! Giáo sư Bảng khi qua đời đã để lại bản thảo và theo di chúc, quyển sách Thư Mục Y Giới Văn Thi Nghệ Sĩ dầy 608 trang, được Hội Y Giới Việt Nam Tự Do Tại Pháp và Hội Y Sĩ Việt Nam Tại Canada ấn hành năm 1997.
Cùng với các vị giáo sư khác như Phạm Biểu Tâm, Nguyễn Hữu...vị giáo sư y khoa đáng kính phục Trần Văn Bảng đã xây dựng ngành y khoa Việt Nam từ lúc khởi đầu. Giáo sư Trần Văn Bảng nổi tiếng trong giới y khoa Việt Nam là người thầy dạy học rất giỏi, hết lòng dậy dỗ sinh viên y khoa và cũng có tiếng là một người thầy thuốc thật là nhân hậu, tận tâm đối với bệnh nhân.
Bác sĩ Lê Văn Lân đã nhớ và ghi lại trong bài viết Giáo Sư Trần Văn Bảng Làm Thơ Và Làm Thuốc về phòng mạch tư của thầy Bảng ở Việt Nam ngày xưa. Ai đã từng đến phòng mạch tư của thầy Bảng ở Sài Gòn trước 1975 đều nhận thấy phòng mạch của thầy rất đơn sơ nhưng ấm cúng. Điều này hầu như có thể chứng tỏ thầy không giầu về tiền, nhưng chắc chắn thầy có nhiều tình người.
Đoạn văn sau đây viết năm 1995, khoảng một năm trước khi thầy từ giã cõi đời, khi một bạn văn thơ nhỏ tuổi hơn và cùng trong gia đình y khoa Việt Nam qua đời, cho thấy tâm hồn đầy tình cảm của giáo sư nghệ sĩ Trần Văn Bảng:
“ ...Đọc lý lịch Phạm Thế Trường, thấy anh sinh năm 1939: Anh qua đời mới có 56 tuổi, có lẽ đầu anh chưa bạc, chao ơi mệnh trời oái ăm:
Lá xanh rụng xuống, lá vàng trên cây...
Tại sao vậy, anh Phạm Thế Trường ra đi để tôi ở lại như một chiếc lá vàng khô còn lay lứt trên cành: Đa thọ thì đa cảm lụy; càng sống lâu, càng “đau đớn lòng vì những điều trông thấy”. Đau đớn nhất là cảnh sinh ly tử biệt, nhiều người thân yêu đã đi trước mình. Mỗi lần nhận được hung tin, là lòng se sắt, gạt lệ viết bài thơ khóc bạn tổng cộng tới hơn 20 bài.
Nay được tin Phạm Thế Trường qua đời, mình muốn khóc, nhưng:
Tuổi già hạt lệ như sương...
Mình muốn cầm bút viết thì văn khí đã cạn...
(Thương Tiếc Phạm Thế Trường/Trần Văn Bảng)
Bài thơ người nghệ sĩ già viết khi biết mình chẳng còn sống bao lâu:
Khăn gói sẵn sàng rời quán trọ
Ra đi, lá rụng trước thu phong
Đoái trông vạn sự đều hư ảo
Kể cả tình yêu “có cũng không”...
...Tay không nợ trắng, ly bôi cạn
Nhẹ gánh ra đi ngả bóng chiều
Ấy thế là xong đời luẩn quẩn
Trong vòng hư ảo kiếm tình yêu.” (Ra Đi/thơ Trần Văn Bảng)
Những vần thơ song thất lục bát thầy Bảng viết từ giã bạn bè khi nghĩ chẳng bao lâu sẽ đến lúc nhắm mắt:
“ ...Bạn ở lại, tôi đi trước nhé!
Có thương nhau cứ để bên lòng
Thở dài một tiếng là xong:
“Chao ơi! Tội nghiệp Sĩ Ngông chết rồi!”... (Lời Chào Vĩnh Biệt/thơ Bằng Vân)
Là một gương sáng cho tất cả các thế hệ y sĩ Việt Nam về sau, giáo sư y khoa Trần Văn Bảng (1909-1996) chẳng những là một lương y đa kỳ tật, mà còn là một lương y như từ mẫu.
QYHD Phạm Anh Dũng
Santa Maria, California, U.S.A.
Tháng 06, 2006




